Hôm nay,  

Đọc 'quê Hương Và Nỗi Nhớ' Của Anh Vũ

2/7/200900:00:00(View: 6244)
Chợt Thấy Ấm Áp Như Đang Ngồi Bên Bếp Lửa Của Mốt Tết Xa Xưa:
Khi Đọc 'Quê Hương Và Nỗi Nhớ' Của Anh Vũ
MƯỜNG GIANG
(Bài lưu trữ trong website : huongvebinhthuan.org và thuvientoancau.com)
 Những ngày cuối năm buồn lạnh nơi quê người, tình cờ đọc được tập thơ của Anh Vũ, bổng dưng chợt thấy ấm áp như đang ngồi nơi bếp lửa canh nồi bánh chưng của một tết nào từ xa lắc.
" Quê hương và nổi nhớ " hay đúng hơn đây là cảm xúc chất ngất trên mi, trong hồn và mang mang hoài vọng của một đứa con bị thất lạc lâu ngày, nay trở lại quê xưa, đặt chân lên khoảng sân nhỏ ngày nào, nơi có mái tranh và người hiền mẫu chập chờn gậy trúc từng canh, tựa cửa chờ con trở lại. Đây cũng là cuộc hành trình về quá khứ có nhiều nước mắt, của những đứa con bị lưu đầy như một người bị thất lạc không biết sẽ về đâu và nơi đâu để mình trở về "
" Chờ đêm xuống con lần về thăm Mẹ
Sao trời soi con thấy được gì đâu "
Nhà mình đây sao trông quá bồi hồi
Bao kỹ niệm tràn về trong khoảnh khắc .."
(Con đã về bên Mẹ)
Tất cả đều là chuyện quê nhà từ đầu trang cho đến cuối, làm cho người đọc đang ở một chân trời mù khơi tít tắp,cũng cảm thấy buồn rầu tới nhỏ lệ khi bồn chồn u uất, theo chân tác giả tìm về bến xưa, tưởng gần trong gang tất nhưng đưa tay vói thì xa cách muôn trùng.
"..ôi sướng quá ta ôm choàng đất Mẹ
Vui ngập tràn bao hạnh phúc tình thương
Dẫu nơi đâu ta vẫn nhớ quê hương
Dòng máu đỏ da vàng con La.c Việt
Hò, hò ơi, lời ru buồn mãi viết
Cho hồn ta hòa vào đất ngàn năm.."
(Tiếng hát trên sông Mường).
 Anh Vũ là một cây bút trẻ còn xa lạ đối với văn đàn hải ngoại nhưng rất thân thương và quen thuộc trong sân trường Trung Học công lập Phan Bội Châu, Phan Thiết và quê hương miền biển mặn Bình Thuận, vì sự đa tài, đa tình, đa năng huyển hoặc của một người thơ, nhà viếtợ nhạc, họa sĩ và trên hết là tâm hồn Thiện Tín có cái tâm vô ngã không bị chi phối trong cái thế giới vô lương, ta bà. Tập thơ gồm bốn chục bài , phần lớn được phổ nhạc, viết đủ loại, nói đủ chuyện của quê xưa, ngoài Mẹ và tên đất ra, tất cả đều là cõi vô cùng, trầm kha dời đổi, rất quen thuộc trong cuộc sống hôm nay nhưng có cái khác thường của một trái tim đau, khi đứng trên quê hương sầu khổ, có cãm nhận mà vẫn phải bất lực vồ hồn.
Thật ra nhà thơ đã viết những gì " mà khiến cho một người lính từng sống xa nhà, xa mẹ, xa em,bổng thấy khao khát về một ngày thanh bình thật sự, để trở lại quê mình, chiều ra đồng vắng nghe tiếng sáo diều thanh thoắt trên không, hay đêm lơ lững con đò, cùng bạn, cùng rượu, cùng trăng ngã nghiêng trước gió biển mơn mơn hơi muối mặn thấm nồng .
Đó là tiếng hát Ô của ai vẳng trên sông Mường, đã là một cõi quê nhà, một chặng đường mà tác giả đã cùng ta xuyên qua cõi hồn khi trở lại thăm Phan Thiết, Bình Thuận, thăm lại ngôi nhà và căn vuờn tuổi thơ. Tất cả dù có đổi thay nhưng cây đa, mái đình , sân trường, hàng hiên, bải biển ngày xưa chúng ta từng hò hẹn, còn em thì đã mù tăm mất dấu.. viết như vậy làm sao mà chẳng buồn "
Mỗi quê hương đều có một dòng sông dù lớn hay nhỏ, Anh Vũ cũng vậy, nên đã nói rất nhiều trong thơ của mình về một dòng sông nhỏ mang tên Mường Mán, tuy không bao la vô tận , đôi bờ ngào ngạt phù sa nhưng ở đó ngày nào, Anh Vũ, Ta và những đứa con yêu của Bình Thuận đã một thời đầu trần chân đất , xuôi tay nằm trên bãi ca.n, gục đầu uống ngụm nước để hồn lắng nghe tiếng chim hót trên nguồn :
"sông nước Mường Giang chảy lững lờ
Thả câu tắm nắng thưở còn thơ
Trèo lên cột gổ cầu đôi ngã
Lội xuống dòng sông tới bến bờ
.. ai ơi có ghé về Phan Thiết
xin nhớ cho ta một bến chờ."
(Quê Hương Phan Thiết)
Đó là nổi khổ sầu của con người bị đầy đọa trong phiền lụy của chiến tranh, của ý thức hệ , của cái tham sân ham muốn muôn đời của con người, luôn luôn lẩn quẩn trong hư và thực, luôn quay cuòng trong một xã hội dối gian đen bạc, bởi vô minh che khuất, bởi sự mệt mõi chán chường của một kiếp người bất hạnh trong thân phận nhược tiểu Việt Nam :
" Em từ vô thủy vô chung
Hốt nhiên hiện hửu ôm cùng nổi đau

Bên kia rợn tiếng lao xao
Nơi này nắng nhuộm sắc màu có không
.. thiên nhiên địa địa âm u
xòe bàn tay nắm ngục tù xác thân."
(Vô đề)
Đó là những tình cảm dâng tràn trên khóe mắt, qua những lời hay ý đẹp tràn ngập trong thơ của tác giả khắp các nẽo đường quá khứ, từ con phố chiều tràn bao nổi nhớ, Lầu nước bâng khuâng đối bóng dưới dòng, Mũi Né-Đức Long thơm nồng nước mắm, Giáo Xứ Lạc Đạo tìm tình Kim Ngọc-Tầm Hưng.. thủy chung cũng vẫn là cái phong cách sống của những người miền ruông miền biển Tuy Phong,Phú Quý,khiến cho người đọc càng náo nức tìm về nơi chốn thân thương của một thời ngập đầy kỹ niệm :
" Lang thang bến vắng Bãi Gành
Trông con sông nước đợi anh trở về
Tình em khoai sắn chân quê
Đời anh mang nặng lời thề nước non.."
(Bài thơ Hải Đảo)
Ô là nổi nhớ mông lung của người xa xứ mà lạ lùng hơn bởi vì qua thơ, ta thấy người thơ khi trở lại quê xưa lại càng thấy nhớ quê hơn và thêm tội nghiệp trước nổi cô đơn, lẽ loi và hiu quạnh. Tất cả như một bức tranh tĩnh lặng vẽ cảnh đất trời hoang vu, có bóng trăng treo cùng bóng núi, trăng núi chơi vơi giữa hư ảo vô tình. Tóm lại xa thì nhớ nhưng tới gần lại càng lại thấy xa , khơi dậy trong hồn người vong quốc,những tiếng thở dài, khác nào hồn xưa đã gởi vào tiếng thời gian hay hồi trống thu không vang lên cho ngày hết. Hồi trống, lời than hay những dặm đường cách trở, qua lời thơ của Anh Vũ, chẳng qua cũng chỉ để gởi một khối sầu tận tuyệt, nơi cõi mênh mộng trống vọng biển dâu của kiếp người :
" Buồn trong xa thẳm giọt rơi
tuôn về ướt lịm một đời lang thang
mưa đâu còn nhớ bàng hoàng
mưa trong dỹ vảng có còn chăng mưa ""
(Mưa)
Có lẽ hơn ai hết, Anh Vũ đã biết rõ những cơn mộng cũ ngày xưa, nay đã nằm ở một góc nào trong trái tim đau, mà ngày trở về có bạn bè đầy chiếu, bên những ly bia bọt vui vui, để rồi ngày ra đi nơi chốn quê người, quẩn quanh đời thiếu, sáng trưa thương nhớ chân mây. Thì ra chúng ta nay cũng giống như một con sông , đầy vơi theo vận nước , nữa như say đắm làn hương ngọt mà đời thì cứ quấn quít hoài theo những gót giầy.
Như một nhà phê bình văn học người Pháp đã viết :" La poésie art suprême , c'est la musique qui pense et la peinture qui se meut ".Ý ông muốn nói Thơ là một nghệ thuật siêu đẳng. Đó làợ âm nhạc biết suy tư và tranh ảnh biết hoạt động. Trong " Quê Hương và Nổi Nhớ ", nhiều bài thơ của Anh Vũ , một cách hồn nhiên đã trở thành những ca khúc, giống như những giai điệu được xây dựng từ những chủ đề âm nhạc, vừa có thủ pháp chặt chẽ , gây được ấn tượng và cãm xúc mõt cách tự nhiên cho bài hát được phổ thành thơ. Ngoài ra nhiều bài thơ như Tiếng Hát trên Sông Mương, Bài thơ dây cáp,Bài thơ hải đảo, vịnh Hồ Gươm.. đọc thơ ta cứ tưởng như đang xem những bức tranh rất linh động và có hồn.
Còn nửa khi nhớ tới mẹ hiền, thi sĩ làm thơ bằng cả tiếng hát ru, nói lên ngàn vạn lần cảm ơn từ mẫu . Ôi không có bài hát nào trên cõi đời này mà ngọt ngào êm ả cho bằng hai tiếng ầu ơ của mẹ, từ ấu thơ cho đến phút cuối cùng, vẫn mang mang một hồn quê nơi chôn nhau cắt rún :
"Bao năm trường mẹ lo nuôi dưỡng
Bằng sữa tươi hạt gạo tình thương
Nhưng đêm mưa dột sa sương
Lộng mùa gió giật, mẹ nhường cho con.."
(Mẹ là Bồ Tát hóa thân)
Cuối cùng,Anh Vũ còn có nhiều bài thơ nói lên tâm sự bi phẩn của kẽ chiến bại, của người lưu vong nhưng vẫn luôn mang một niềm tin sắt đá, của một chiến thắng cuối cùng :
" Gởi lửa tự do tận quê nhà
Triệu người vùng dậy vút lời ca
Đập tan quỷ đỏ loài tinh cáo
Rợp bóng cờ vàng nghĩa quốc gia.."
(Xuân Quang Trung)
Nhưng có lẽ điều đáng yêu nhất trong thi tập " Quê Hương và Nổi Nhớ", là những câu thơ trong bài " Thay lời tựa"vừa như xin lỗi, lại khiêm tốn, rất gần gũi với tâm tư của Nguyễn Du Tiên Sinh năm nào khi đặc bút viết :" Lời quê chắp nhặt dông dài, Mua vui cũng được một vài trống canh ".Phải chăng vì vậy mà Anh Vũ đã viết :
" Than ôi trong cõi ta bà
Thi nhân mặc khách, thơ là toàn năng
Quay về đọc áng tân thanh
Mua vui cũng chỉ trống canh là nhiều " ./-
 Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng Hai 2009
Mường Giang

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.