Hôm nay,  

Đọc 'quê Hương Và Nỗi Nhớ' Của Anh Vũ

07/02/200900:00:00(Xem: 6233)
Chợt Thấy Ấm Áp Như Đang Ngồi Bên Bếp Lửa Của Mốt Tết Xa Xưa:
Khi Đọc 'Quê Hương Và Nỗi Nhớ' Của Anh Vũ
MƯỜNG GIANG
(Bài lưu trữ trong website : huongvebinhthuan.org và thuvientoancau.com)
 Những ngày cuối năm buồn lạnh nơi quê người, tình cờ đọc được tập thơ của Anh Vũ, bổng dưng chợt thấy ấm áp như đang ngồi nơi bếp lửa canh nồi bánh chưng của một tết nào từ xa lắc.
" Quê hương và nổi nhớ " hay đúng hơn đây là cảm xúc chất ngất trên mi, trong hồn và mang mang hoài vọng của một đứa con bị thất lạc lâu ngày, nay trở lại quê xưa, đặt chân lên khoảng sân nhỏ ngày nào, nơi có mái tranh và người hiền mẫu chập chờn gậy trúc từng canh, tựa cửa chờ con trở lại. Đây cũng là cuộc hành trình về quá khứ có nhiều nước mắt, của những đứa con bị lưu đầy như một người bị thất lạc không biết sẽ về đâu và nơi đâu để mình trở về "
" Chờ đêm xuống con lần về thăm Mẹ
Sao trời soi con thấy được gì đâu "
Nhà mình đây sao trông quá bồi hồi
Bao kỹ niệm tràn về trong khoảnh khắc .."
(Con đã về bên Mẹ)
Tất cả đều là chuyện quê nhà từ đầu trang cho đến cuối, làm cho người đọc đang ở một chân trời mù khơi tít tắp,cũng cảm thấy buồn rầu tới nhỏ lệ khi bồn chồn u uất, theo chân tác giả tìm về bến xưa, tưởng gần trong gang tất nhưng đưa tay vói thì xa cách muôn trùng.
"..ôi sướng quá ta ôm choàng đất Mẹ
Vui ngập tràn bao hạnh phúc tình thương
Dẫu nơi đâu ta vẫn nhớ quê hương
Dòng máu đỏ da vàng con La.c Việt
Hò, hò ơi, lời ru buồn mãi viết
Cho hồn ta hòa vào đất ngàn năm.."
(Tiếng hát trên sông Mường).
 Anh Vũ là một cây bút trẻ còn xa lạ đối với văn đàn hải ngoại nhưng rất thân thương và quen thuộc trong sân trường Trung Học công lập Phan Bội Châu, Phan Thiết và quê hương miền biển mặn Bình Thuận, vì sự đa tài, đa tình, đa năng huyển hoặc của một người thơ, nhà viếtợ nhạc, họa sĩ và trên hết là tâm hồn Thiện Tín có cái tâm vô ngã không bị chi phối trong cái thế giới vô lương, ta bà. Tập thơ gồm bốn chục bài , phần lớn được phổ nhạc, viết đủ loại, nói đủ chuyện của quê xưa, ngoài Mẹ và tên đất ra, tất cả đều là cõi vô cùng, trầm kha dời đổi, rất quen thuộc trong cuộc sống hôm nay nhưng có cái khác thường của một trái tim đau, khi đứng trên quê hương sầu khổ, có cãm nhận mà vẫn phải bất lực vồ hồn.
Thật ra nhà thơ đã viết những gì " mà khiến cho một người lính từng sống xa nhà, xa mẹ, xa em,bổng thấy khao khát về một ngày thanh bình thật sự, để trở lại quê mình, chiều ra đồng vắng nghe tiếng sáo diều thanh thoắt trên không, hay đêm lơ lững con đò, cùng bạn, cùng rượu, cùng trăng ngã nghiêng trước gió biển mơn mơn hơi muối mặn thấm nồng .
Đó là tiếng hát Ô của ai vẳng trên sông Mường, đã là một cõi quê nhà, một chặng đường mà tác giả đã cùng ta xuyên qua cõi hồn khi trở lại thăm Phan Thiết, Bình Thuận, thăm lại ngôi nhà và căn vuờn tuổi thơ. Tất cả dù có đổi thay nhưng cây đa, mái đình , sân trường, hàng hiên, bải biển ngày xưa chúng ta từng hò hẹn, còn em thì đã mù tăm mất dấu.. viết như vậy làm sao mà chẳng buồn "
Mỗi quê hương đều có một dòng sông dù lớn hay nhỏ, Anh Vũ cũng vậy, nên đã nói rất nhiều trong thơ của mình về một dòng sông nhỏ mang tên Mường Mán, tuy không bao la vô tận , đôi bờ ngào ngạt phù sa nhưng ở đó ngày nào, Anh Vũ, Ta và những đứa con yêu của Bình Thuận đã một thời đầu trần chân đất , xuôi tay nằm trên bãi ca.n, gục đầu uống ngụm nước để hồn lắng nghe tiếng chim hót trên nguồn :
"sông nước Mường Giang chảy lững lờ
Thả câu tắm nắng thưở còn thơ
Trèo lên cột gổ cầu đôi ngã
Lội xuống dòng sông tới bến bờ
.. ai ơi có ghé về Phan Thiết
xin nhớ cho ta một bến chờ."
(Quê Hương Phan Thiết)
Đó là nổi khổ sầu của con người bị đầy đọa trong phiền lụy của chiến tranh, của ý thức hệ , của cái tham sân ham muốn muôn đời của con người, luôn luôn lẩn quẩn trong hư và thực, luôn quay cuòng trong một xã hội dối gian đen bạc, bởi vô minh che khuất, bởi sự mệt mõi chán chường của một kiếp người bất hạnh trong thân phận nhược tiểu Việt Nam :
" Em từ vô thủy vô chung
Hốt nhiên hiện hửu ôm cùng nổi đau

Bên kia rợn tiếng lao xao
Nơi này nắng nhuộm sắc màu có không
.. thiên nhiên địa địa âm u
xòe bàn tay nắm ngục tù xác thân."
(Vô đề)
Đó là những tình cảm dâng tràn trên khóe mắt, qua những lời hay ý đẹp tràn ngập trong thơ của tác giả khắp các nẽo đường quá khứ, từ con phố chiều tràn bao nổi nhớ, Lầu nước bâng khuâng đối bóng dưới dòng, Mũi Né-Đức Long thơm nồng nước mắm, Giáo Xứ Lạc Đạo tìm tình Kim Ngọc-Tầm Hưng.. thủy chung cũng vẫn là cái phong cách sống của những người miền ruông miền biển Tuy Phong,Phú Quý,khiến cho người đọc càng náo nức tìm về nơi chốn thân thương của một thời ngập đầy kỹ niệm :
" Lang thang bến vắng Bãi Gành
Trông con sông nước đợi anh trở về
Tình em khoai sắn chân quê
Đời anh mang nặng lời thề nước non.."
(Bài thơ Hải Đảo)
Ô là nổi nhớ mông lung của người xa xứ mà lạ lùng hơn bởi vì qua thơ, ta thấy người thơ khi trở lại quê xưa lại càng thấy nhớ quê hơn và thêm tội nghiệp trước nổi cô đơn, lẽ loi và hiu quạnh. Tất cả như một bức tranh tĩnh lặng vẽ cảnh đất trời hoang vu, có bóng trăng treo cùng bóng núi, trăng núi chơi vơi giữa hư ảo vô tình. Tóm lại xa thì nhớ nhưng tới gần lại càng lại thấy xa , khơi dậy trong hồn người vong quốc,những tiếng thở dài, khác nào hồn xưa đã gởi vào tiếng thời gian hay hồi trống thu không vang lên cho ngày hết. Hồi trống, lời than hay những dặm đường cách trở, qua lời thơ của Anh Vũ, chẳng qua cũng chỉ để gởi một khối sầu tận tuyệt, nơi cõi mênh mộng trống vọng biển dâu của kiếp người :
" Buồn trong xa thẳm giọt rơi
tuôn về ướt lịm một đời lang thang
mưa đâu còn nhớ bàng hoàng
mưa trong dỹ vảng có còn chăng mưa ""
(Mưa)
Có lẽ hơn ai hết, Anh Vũ đã biết rõ những cơn mộng cũ ngày xưa, nay đã nằm ở một góc nào trong trái tim đau, mà ngày trở về có bạn bè đầy chiếu, bên những ly bia bọt vui vui, để rồi ngày ra đi nơi chốn quê người, quẩn quanh đời thiếu, sáng trưa thương nhớ chân mây. Thì ra chúng ta nay cũng giống như một con sông , đầy vơi theo vận nước , nữa như say đắm làn hương ngọt mà đời thì cứ quấn quít hoài theo những gót giầy.
Như một nhà phê bình văn học người Pháp đã viết :" La poésie art suprême , c'est la musique qui pense et la peinture qui se meut ".Ý ông muốn nói Thơ là một nghệ thuật siêu đẳng. Đó làợ âm nhạc biết suy tư và tranh ảnh biết hoạt động. Trong " Quê Hương và Nổi Nhớ ", nhiều bài thơ của Anh Vũ , một cách hồn nhiên đã trở thành những ca khúc, giống như những giai điệu được xây dựng từ những chủ đề âm nhạc, vừa có thủ pháp chặt chẽ , gây được ấn tượng và cãm xúc mõt cách tự nhiên cho bài hát được phổ thành thơ. Ngoài ra nhiều bài thơ như Tiếng Hát trên Sông Mương, Bài thơ dây cáp,Bài thơ hải đảo, vịnh Hồ Gươm.. đọc thơ ta cứ tưởng như đang xem những bức tranh rất linh động và có hồn.
Còn nửa khi nhớ tới mẹ hiền, thi sĩ làm thơ bằng cả tiếng hát ru, nói lên ngàn vạn lần cảm ơn từ mẫu . Ôi không có bài hát nào trên cõi đời này mà ngọt ngào êm ả cho bằng hai tiếng ầu ơ của mẹ, từ ấu thơ cho đến phút cuối cùng, vẫn mang mang một hồn quê nơi chôn nhau cắt rún :
"Bao năm trường mẹ lo nuôi dưỡng
Bằng sữa tươi hạt gạo tình thương
Nhưng đêm mưa dột sa sương
Lộng mùa gió giật, mẹ nhường cho con.."
(Mẹ là Bồ Tát hóa thân)
Cuối cùng,Anh Vũ còn có nhiều bài thơ nói lên tâm sự bi phẩn của kẽ chiến bại, của người lưu vong nhưng vẫn luôn mang một niềm tin sắt đá, của một chiến thắng cuối cùng :
" Gởi lửa tự do tận quê nhà
Triệu người vùng dậy vút lời ca
Đập tan quỷ đỏ loài tinh cáo
Rợp bóng cờ vàng nghĩa quốc gia.."
(Xuân Quang Trung)
Nhưng có lẽ điều đáng yêu nhất trong thi tập " Quê Hương và Nổi Nhớ", là những câu thơ trong bài " Thay lời tựa"vừa như xin lỗi, lại khiêm tốn, rất gần gũi với tâm tư của Nguyễn Du Tiên Sinh năm nào khi đặc bút viết :" Lời quê chắp nhặt dông dài, Mua vui cũng được một vài trống canh ".Phải chăng vì vậy mà Anh Vũ đã viết :
" Than ôi trong cõi ta bà
Thi nhân mặc khách, thơ là toàn năng
Quay về đọc áng tân thanh
Mua vui cũng chỉ trống canh là nhiều " ./-
 Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng Hai 2009
Mường Giang

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ còn vỏn vẹn chưa đầy ba tuần nữa là ngày bầu cử. Cho đến hôm nay, ai nói, cũng đã nói. Ai làm, cũng đã làm. Nói nhiều hay ít, và làm nhiều hay ít, cũng đã thể hiện rõ ràng. Trừ khi, như một cựu ký giả của tờ Sóng Thần trước năm 1975, hiện đang sinh sống ở Virginia, nói rằng: “Có thể họ không lên tiếng trước công chúng, nhưng ngày bầu cử, lá phiếu của họ dành cho đảng đối lập.” Vị cựu nhà báo này muốn nói đến cựu tổng thống Hoa Kỳ, George W Bush, vị tổng thống duy nhất thuộc đảng Cộng hoà còn tại thế.
Hoa Kỳ luôn được tôn vinh là một cường quốc tích cực tham gia trong mọi sinh hoạt chính trị quốc tế, nhưng lịch sử ngoại giao đã chứng minh ngược lại: Hoa Kỳ từng theo đuổi nguyên tắc bất can thiệp và cũng đã nhiều lần dao động giữa hai chủ thuyết quốc tế và cô lập. Trong việc thực thi chính sách đối ngoại trong thế kỷ XX, Hoa Kỳ mới thực sự trực tiếp định hình cho nền chính trị toàn cầu, lãnh đạo thế giới tự do và bảo vệ nền an ninh trật tự chung. Nhưng đối với châu Âu, qua thời gian, vì nhiều lý do khác nhau, càng ngày Hoa Kỳ càng tỏ ra muốn tránh xa mọi ràng buộc càng tốt.
Tiếng Việt không ít những thành ngữ (ví von) liên hệ đến đặc tính của nhiều con vật hiền lành và quen thuộc: ăn như heo, ăn như mèo, nhát như cáy, gáy như dế, khóc như ri, lủi như trạch, chạy như ngựa, bơi như rái, khỏe như voi, hỗn như gấu, chậm như rùa, lanh như tép, ranh như cáo, câm như hến …Dù có trải qua thêm hàng ngàn hay hàng triệu năm tiến hóa, và thích nghi để sinh tồn chăng nữa – có lẽ – sóc vẫn cứ nhanh, sên vẫn cứ yếu, cú vẫn cứ hôi, lươn vẫn cứ trơn, đỉa vẫn cứ giai, thỏ vẫn cứ hiền, cá vẫn cứ tanh, chim vẫn cứ bay, cua vẫn cứ ngang (thôi) nhưng hến thì chưa chắc đã câm đâu nha.
Khi thiên tai đổ xuống, thảm họa xảy ra, và con người với khả năng chống đỡ có giới hạn, thì những gì nhân loại có thể làm là cứu nhau. Ngược lại với nguyên tắc tưởng chừng như bất di bất dịch của một thời đại mà con người luôn hướng đến hòa bình và lương thiện, lại là các thuyết âm mưu tạo ra để lan truyền thù ghét và mất niềm tin vào chính quyền đương nhiệm. Đại dịch Covid-19 vĩnh viễn là sự thật của lịch sử Mỹ, trong triều đại của Donald Trump. Tòa Bạch Ốc của Trump lúc ấy, qua lời mô tả của những nhân viên trong ngày dọn dẹp văn phòng làm việc để bắt đầu bước vào giai đoạn “work from home” là “ngôi nhà ma.” Giữa lúc số người chết tăng theo từng giây trên khắp thế giới thì Trump vẫn điên cuồng xoay chuyển “tứ phương tám hướng” để kéo người dân quay về một góc khác của đại dịch, theo ý của Trump: “Covid không nguy hiểm.”
Mặc dù các bác sĩ tâm thần có bổn phận bảo mật các thông tin sức khỏe tâm thần do bệnh nhân tiết lộ, nhưng hầu hết các tiểu bang tại Hoa Kỳ đều có luật bắt buộc hoặc cho phép bác sĩ tâm thần tiết lộ thông tin bí mật khi bệnh nhân có triển vọng gây tổn hại cho cộng đồng...
Trong tuần lễ cuối cùng của chiến dịch tranh cử tổng thống vào năm 1980 giữa Tổng Thống Đảng Jimmy Carter (Dân Chủ) và ứng cử viên Ronald Reagan (Cộng Hòa), hai ứng cử viên đã có một cuộc tranh luận duy nhất vào ngày 28 tháng 10. Trong cuộc tranh luận, Reagan đã nêu ra một trong những câu hỏi quan trọng nhất trong mọi thời đại: “Hôm nay quý vị có khá hơn bốn năm trước hay không?” Câu trả lời của Carter là “KHÔNG." Cùng với một số lý do không kém quan trọng khác, số phiếu của ông đã giảm xuống vào những ngày quan trọng cuối cùng của chiến dịch tranh cử. Reagan đã giành được số phiếu phổ thông lớn và chiến thắng trong cuộc bầu cử.
Nobel là một giải thưởng cao qúy nhưng đó không phải là tất cả hay tối thượng mà, xét cho cùng, mục tiêu của nền văn học quốc gia hay bất cứ lĩnh vực nào khác đâu nhất thiết là hướng tới giải Nobel? Mahatma Gandhi đã năm lần bị bác giải Nobel Hoà Bình nhưng so với một Henry Kissinger hí hửng ôm nửa cái giải ấy vào năm 1973, ai đáng ngưỡng mộ hơn ai? Tuyên ngôn Nobel Văn Chương 1938 vinh danh nhà văn Mỹ Pearl Buck về những tác phẩm “diễn tả xác thực đời sống của nông dân Trung Hoa” nhưng, so với Lỗ Tấn cùng thời, nhà văn không chỉ diễn tả xác thực đời sống mà cả tâm não của người Trung Hoa, ai để lại dư âm lâu dài hơn ai?
Nếu mũ cối là biểu tượng của thực dân Tây phương vào thế kỷ 18 thì, bây giờ, “năng lượng tích cực”, như là diễn ngôn của thực dân Đại Hán với những dấu ấn đậm nét của tân hoàng đế Tập Cận Bình, đã trở nên gắn bó với người Việt, từ diễn ngôn của thể chế cho đến giọng điệu ngôn tình của những đôi lứa bỡ ngỡ trước ngưỡng cửa hôn nhân.
AI là trí tuệ nhân tạo. AI là một kho kiến thức nhiều vô cùng vô tận, đã siêu xuất chứa đựng nhiều thư viện nhân loại hơn bất kỳ dữ liệu tri thức nào, và cứ mỗi ngày AI lại mang thêm nhiều công năng hữu dụng, mà một người đời thường không thể nào có nổi kho tri thức đó. Trong khi đó, Thầy Tuệ Sỹ là một nhà sư phi thường của dân tộc, với những tri kiến và hồn thơ (như dường) phong phú hơn bất kỳ nhà sư nào đã từng có của dân tộc Việt. Câu hỏi là, AI có thể biểu hiện như một Tuệ Sỹ hay không? Chúng ta có thể gặp lại một phong cách độc đáo của Tuệ Sỹ trong AI hay không? Thử nghiệm sau đây cho thấy AI không thể sáng tác được những câu đối cực kỳ thơ mộng như Thầy Tuệ Sỹ. Để thanh minh trước, người viết không phải là khoa học gia để có thể hiểu được vận hành của AI. Người viết bản thân cũng không phải học giả về kho tàng Kinh Phật để có thể đo lường sự uyên áo của Thầy Tuệ Sỹ.
Israel và Iran đã âm thầm chống nhau trong một thời gian dài. Nhưng nhiều diễn biến sôi động liên tục xảy ra gần đây làm cho xung đột giữa hai nước leo thang và chiến tranh có nguy cơ bùng nổ và lan rộng ra toàn khu vực. Điển hình là vào tháng 4 năm nay, Iran công khai tấn công bằng tên lửa vào lãnh thổ Israel. Đầu tháng 10, Israel đã tấn công bằng bộ binh ở miền nam Lebanon. Trước đó, trong cuộc không kích vào trụ sở dân quân Hezbollah ở Beirut, Israel đã tiêu diệt thủ lĩnh Hezbollah là Hassan Nasrallah và nhiều nhân vật quan trọng khác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.