Hôm nay,  

Từ Roosevelt Đến Trump: Nhìn Lại Lịch Sử Thăng Trầm Của Medicaid

11/04/202500:00:00(Xem: 747)
Medicaid
Không thể phủ nhận rằng: trải qua các đời tổng thống, chương trình Medicaid luôn là tâm điểm đấu đá chính trị, nhưng vẫn đóng vai trò thiết yếu cho người nghèo khó và người cao niên. (Nguồn: pixabay.com)
 
Medicaid đang trở thành một trong những mục tiêu đầu tiên của chính quyền Trump trong chiến dịch cắt giảm ngân sách liên bang. Là chương trình bảo hiểm y tế do liên bang và tiểu bang phối hợp thực hiện, Medicaid cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho hơn 72 triệu người dân Hoa Kỳ, bao gồm những người có thu nhập thấp, trẻ em và người tàn tật. Ngoài ra, Medicaid cũng góp phần hỗ trợ chi phí chăm sóc lâu dài cho người cao niên.
 
Cuối tháng 2 năm 2025, phía Cộng hòa tại Hạ Viện đã đưa ra một kế hoạch ngân sách có thể cắt giảm 880 tỷ MK từ Medicaid trong vòng 10 năm. Điều đáng nói là, Tổng thống Trump đã lên tiếng ủng hộ kế hoạch này, dù trước đó từng nhiều lần cam kết trong chiến dịch tranh cử cũng như trong giai đoạn bàn giao công vụ rằng sẽ không động chạm gì đến Medicaid.
 
Hiện tại, Medicaid chi trả cho khoảng một phần năm dân số Hoa Kỳ, với tổng chi phí hàng năm vào khoảng 880 tỷ MK, trong đó 600 tỷ MK đến từ ngân sách liên bang. Nhiều kinh tế gia và chuyên gia y tế công cộng cộng cảnh báo rằng việc cắt giảm mạnh ngân sách Medicaid có thể khiến nhiều người mất đi cơ hội được sử dụng các dịch vụ y tế cần thiết, đồng thời gánh nặng tài chánh đối với các gia đình thu nhập thấp sẽ trở nên trầm trọng hơn.
 
Nghiên cứu lịch sử tổng quát đầu tiên về Medi-Cal – hệ thống Medicaid của tiểu bang California cho thấy rằng, tương tự như chương trình Medicaid trên toàn quốc, Medi-Cal không phải là một hệ thống bảo hiểm y tế cho toàn dân, mà là một thỏa hiệp sau khi Đảng Dân Chủ thất bại trong nỗ lực thiết lập hệ thống bảo hiểm y tế cho toàn dân vào những năm 1930 và 1940.
 
Thay vào đó, Hoa Kỳ đã phát triển một hệ thống y tế riêng lẻ, rời rạc như ngày nay. Trong đó, bảo hiểm y tế do các công ty cung cấp chủ yếu dành cho người trong độ tuổi đi làm, Medicare dành cho người cao niên, và Medicaid là mạng lưới an sinh dành cho những người còn sót lại.
 
Những nỗ lực cải cách y tế và cuộc đối đầu với Hội Y Sĩ Hoa Kỳ (AMA)
 
Lịch sử Medicaid chính thức bắt đầu vào năm 1965, khi Tổng thống Lyndon B. Johnson ký thông qua chương trình này cùng với Medicare. Tuy nhiên, những ý tưởng đặt nền móng cho hệ thống bảo hiểm y tế công cộng đã xuất hiện từ những năm 1930 và 1940.
 
Dưới thời Tổng thống Franklin D. Roosevelt, khi chương trình New Deal được triển khai nhằm phục hồi kinh tế sau Đại Suy Trầm (The Great Depression), nhiều cố vấn của ông mong muốn kết hợp một hệ thống bảo hiểm y tế toàn quốc vào chương trình An Sinh Xã Hội. Thế nhưng, kế hoạch này đã thất bại sau những cuộc tranh luận gay gắt. Đạo luật An Sinh Xã Hội (Social Security Act) năm 1935 chỉ tập trung vào bảo hiểm thất nghiệp và hưu trí, hoàn toàn không bao gồm bảo hiểm y tế.
 
Dù vậy, trong và sau Thế Chiến II, các chính trị gia theo đường lối tự do cùng các nghiệp đoàn tiếp tục thúc đẩy một dự luật để thêm bảo hiểm y tế vào chương trình An Sinh Xã Hội. Năm 1945, khi Harry Truman kế nhiệm Roosevelt, ông nhiệt tình ủng hộ kế hoạch này và phát triển thành “Kế hoạch Truman” (Truman Plan).
 
Tuy nhiên, Hội Y Sĩ Hoa Kỳ (American Medical Association, AMA), tổ chức đại diện cho phần lớn các bác sĩ trên toàn quốc, lo ngại rằng chính phủ sẽ kiểm soát quá mức ngành y tế. Do đó, AMA đã vận động mạnh mẽ để ngăn chặn mọi hình thức bảo hiểm y tế công cộng do chính phủ điều hành.
 
Cuối những năm 1940, AMA chi hàng triệu MK vào các chiến dịch quảng cáo chính trị nhằm đánh bại kế hoạch của Truman. Họ cho rằng các chương trình bảo hiểm y tế tư nhân và tự nguyện là lựa chọn tốt hơn so với bảo hiểm y tế do chính phủ quản trị.
 
Lúc bấy giờ, Hoa Kỳ chưa có hệ thống bảo hiểm toàn dân, những chương trình bảo hiểm tư nhân như Kaiser Permanente ngày càng được ưa chuộng. Nhiều nghiệp đoàn cũng bắt đầu yêu cầu các công ty, xí nghiệp đưa bảo hiểm y tế vào danh sách các quyền lợi bắt buộc trong các hợp đồng lao động.
 
AMA nhấn mạnh rằng bảo hiểm y tế do công ty cung cấp mới là “cách làm của nước Mỹ,” còn hệ thống bảo hiểm công của chính phủ được coi là “y tế bị xã hội hóa”.
 
Giữa thời kỳ cao trào của phong trào chống cộng vào cuối thập niên 1940, những chiến dịch tuyên truyền của AMA đã thành công trong việc làm suy giảm sự ủng hộ của công chúng đối với bảo hiểm y tế công cộng. Đến năm 1950, mọi nỗ lực xây dựng hệ thống bảo hiểm cho toàn dân đều thất bại.
 
Lyndon B. Johnson, John F. Kennedy và sự ra đời của Medicaid
 
Trong những năm 1950, bảo hiểm y tế tư nhân ngày càng phổ biến nhờ các chính sách ưu đãi thuế của chính phủ liên bang và nhu cầu giữ chân công nhân của các công ty, xí nghiệp. Tuy nhiên, những nhóm người dễ bị tổn thương nhất – bao gồm người nghèo, người thất nghiệp và người trên 65 tuổi – vẫn không có nhiều lựa chọn. Những người không có bảo hiểm tư nhân thường có sức khỏe kém hơn, đồng nghĩa với việc họ cần được chăm sóc y tế nhiều hơn nhưng lại không có tiền để trả.
 
Xét từ góc độ kinh doanh, những người có sức khỏe kém là nhóm khách hàng “miễn cưỡng” của các công ty bảo hiểm. Vì vậy, các công ty bảo hiểm tư nhân áp dụng hai cách đối phó: hoặc tăng mức phí bảo hiểm lên rất cao, khiến nhiều người trong nhóm này không thể tham gia, hoặc đơn giản là từ chối cung cấp bảo hiểm cho họ.
 
Thấy được tình hình này, nhiều chuyên gia cải cách y tế như Wilbur Cohen – một chuyên gia thuộc Cơ quan An Sinh Xã Hội – đề nghị thành lập một chương trình bảo hiểm y tế do chính phủ bảo trợ dành riêng cho người cao niên và những người có thu nhập thấp. Họ tin rằng nếu có thể tạo ra chương trình bảo hiểm dành cho những nhóm người dễ bị tổn thương, thì đây sẽ là bước đệm để tiến tới một hệ thống bảo hiểm y tế cho toàn dân.
 
Tổng thống John F. Kennedy ủng hộ kế hoạch này, nhưng chưa kịp thực hiện thì bị ám sát. Khi Lyndon B. Johnson kế nhiệm, ông đã ký một đạo luật mang tính bước ngoặt trong chương trình Great Society năm 1965, mở đường cho sự ra đời của Medicare và Medicaid.
 
Từ Reagan đến Trump: Medicaid và những tranh cãi chính trị
 
Trong những năm 1970 và 1980, số lượng người tham gia Medicaid ngày càng tăng lên. Điều này khiến phe bảo thủ dần coi chương trình này là “phúc lợi không làm mà hưởng” (unearned welfare). Khi còn là Thống đốc California, Ronald Reagan đã tích cực tìm cách cắt giảm và tư nhân hóa chương trình Medicaid trong tiểu bang.
 
Khi trở thành tổng thống vào đầu thập niên 1980, Reagan đã cắt giảm 18% ngân sách liên bang dành cho Medicaid, khiến khoảng 600,000 người mất bảo hiểm y tế, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho các nhóm người yếu thế.
 
Mặc dù sau đó ngân sách Medicaid đã tăng trở lại, nhưng chương trình này vẫn luôn là chủ đề tranh luận giữa hai đảng. Trong những năm 1990 và 2000, Đảng Cộng Hòa đề nghị thay đổi cơ chế tài trợ của Medicaid. Thay vì để chính phủ liên bang hỗ trợ theo mức chi tiêu thực tế của từng tiểu bang, họ muốn áp dụng hệ thống phân bổ ngân sách cố định (block grant system), tức là mỗi tiểu bang sẽ chỉ nhận một khoản ngân sách nhất định để chi cho Medicaid, bất kể nhu cầu thực tế như thế nào. Mô hình này giúp chính phủ kiểm soát ngân sách dễ hơn, nhưng cũng có nguy cơ khiến các tiểu bang bị thiếu hụt kinh phí khi nhu cầu Medicaid gia tăng.
 
Dưới thời Trump, ý tưởng này một lần nữa được đưa ra (trong nhiệm kỳ đầu tiên). Giờ đây, khi Trump bước vào nhiệm kỳ thứ hai, các thành viên Đảng Cộng Hòa tại Hạ Viện tiếp tục đề nghị áp dụng hệ thống block grant để đạt được mục tiêu cắt giảm chi tiêu liên bang.
 
Mở rộng Medicaid theo Đạo luật ACA
 
Đạo luật Chăm sóc Sức khỏe Vừa túi tiền (Affordable Care Act, ACA) năm 2010 đã giúp mở rộng Medicaid, cho phép người trưởng thành có thu nhập bằng hoặc thấp hơn 138% mức chuẩn nghèo liên bang (federal poverty line, FPL) được hưởng bảo hiểm y tế.
 
Mặc dù ACA dự định áp dụng việc mở rộng Medicaid trên toàn quốc, nhưng năm 2012, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã ra phán quyết rằng mỗi tiểu bang có quyền tự quyết định tham gia hay không. Kết quả là 40 trên 50 tiểu bang đã tham gia mở rộng Medicaid, trong khi 10 tiểu bang còn lại từ chối.
 
Tính đến năm 2023, Medicaid đã trở thành nguồn bảo hiểm y tế công cộng lớn nhất của Hoa Kỳ, chiếm 18% tổng chi tiêu y tế và hơn một nửa chi tiêu cho chăm sóc lâu dài. Gần 40% trẻ em ở Hoa Kỳ có Medicaid, trong đó 80% trẻ em sống trong nghèo đói phụ thuộc vào chương trình này. Medicaid giúp cho các cộng đồng người da màu và những thai phụ có thu nhập thấp vẫn được chăm sóc y tế. Chương trình cũng hỗ trợ tài chánh cho những người có thu nhập thấp cần chăm sóc chuyên nghiệp và chăm sóc 24/7 tại các viện dưỡng lão.
 
Vì Hoa Kỳ không có hệ thống bảo hiểm y tế cho toàn dân, Medicaid trở thành mạng lưới an sinh quan trọng, giúp lấp đi những lỗ hổng mà bảo hiểm tư nhân chừa lại, đảm bảo rằng hàng triệu người dân Hoa Kỳ được chăm sóc sức khỏe khi ốm đau, bệnh tật.
 
Dù ở tiểu bang nào, từ Medi-Cal ở California đến Husky Health ở Connecticut, Medicaid đều là nền tảng quan trọng của hệ thống chăm sóc sức khỏe của nước Mỹ. Vì thế kế hoạch cắt giảm ngân sách của Hạ Viện nói thì dễ mà làm không dễ!
 
Nguyên Hòa biên dịch 
Nguồn: “A brief history of Medicaid and America’s long struggle to establish a health care safety net” được đăng trên trang TheConversation.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Phải làm gì với một Tổng thống Hoa Kỳ không tôn trọng luật pháp của chính quốc gia mình? Vấn đề này nổi lên sau vụ việc chính quyền Trump phớt lờ phán quyết của tòa án liên bang, vẫn để các chuyến bay trục xuất người Venezuela khởi hành đến El Salvador dù tòa đã ra lệnh đình chỉ toàn bộ các chuyến bay đó. Hành động này cho thấy sự thách thức công khai đối với quyền lực tư pháp, và phản ánh sự thiếu hiểu biết (hoặc cố tình phớt lờ) nguyên tắc tam quyền phân lập, vốn là nền tảng của thể chế Hoa Kỳ. Theo Hiến pháp, một tổng thống không có quyền bác bỏ hay phớt lờ phán quyết của tòa án.
Lệnh hành pháp khi được công bố luôn tạo nhiều dư luận trái chiều. Lệnh càng ảnh hưởng nhiều người thì tranh cãi càng kéo dài. Gần đây trong một buổi họp mặt, một người bạn của tôi thốt tiếng than: “Chẳng hiểu thành viên Quốc hội Mỹ của cả hai đảng bây giờ làm gì mà cứ im lìm để tổng thống muốn ra lệnh gì thì ra”. Người khác thắc mắc, nếu tổng thống dùng lệnh hành pháp để đưa ra những quyết định không đúng luật, hay trái với hiến pháp, thì cơ quan nào sẽ có trách nhiệm can thiệp? Bài viết này không phân tích một lệnh hành pháp cụ thể nào, mà chỉ nhằm giải thích cách vận hành của Executive Order, quy trình thách thức nếu cần, cũng như những giới hạn của một mệnh lệnh do tổng thống ban hành.
Gần đây, nhiều hình ảnh và video lan truyền trên mạng xã hội đã khiến dư luận quốc tế kinh hoàng: hàng loạt sà lan quân sự khổng lồ của TQ – loại phương tiện chuyên dụng cho các chiến dịch đổ bộ từ đất liền ra biển – lần đầu tiên lộ diện. Ngay sau đó, vào ngày 1 tháng 4 năm 2025, Bắc Kinh tiến hành cuộc tập trận quân sự kéo dài hai ngày ở eo biển Đài Loan. Điều này càng làm dấy lên lo ngại: Liệu TQ có đang chuẩn bị một cuộc xâm lược kiểu D-Day vào Đài Loan?
Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.
Kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4/75, 50 năm trôi qua, đã có không biết bao nhiêu sách vở nói về cái ngày bi thương đó của dân tộc Việt Nam, nhưng có lẽ không gì trung thực và sống động cho bằng chính những bản tường trình trên báo chí vào đúng thời điểm đó từ những phóng viên chiến trường tận mắt chứng kiến thảm cảnh chưa từng có bao giờ của hàng trăm ngàn người, dân cũng như quân, liều mình xông vào cõi chết để tìm cái sống. Năm 2025, đánh dấu 50 năm biến động lịch sử đó, Việt Báo hân hạnh được đăng tải loạt bài viết của ký giả Đinh Từ Thức ghi lại chi tiết từng ngày, đôi khi từng giờ, những điều xảy ra trong mấy tuần lễ trước và sau ngày 30/4/75 để chúng ta có cơ hội cùng sống lại những giờ khắc bi thảm và kinh hoàng ấy đã xảy ra như thế nào.
Năm Carlton Terry 12 tuổi, hệ thống trường học tại Quận Prince Edward, bang Virginia, bất ngờ đóng cửa đối với tất cả trẻ em người da đen. Nhớ lại năm đầu tiên ấy, ông kể: “Tất cả những gì tôi biết là tôi không được đến trường, và tôi biết lý do tại sao. Tôi nhận ra rằng hệ thống pháp luật được tạo ra không phải để bảo vệ tôi. Tôi nhớ những ngày ngồi nhà, sững sờ trước màn hình TV, xem chương trình Amos ’n’ Andy. Mỗi ngày, tôi đọc báo để xem liệu có gì thay đổi hay không.”
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.