Hôm nay,  

Khánh Ly - Giọng Hát Là Nơi Neo Đậu Của Một Thế Hệ

13/03/202511:13:00(Xem: 4777)

CDs Khanh Ly
Một góc trong phần trưng bày tiệc Sinh Nhật Khánh Ly 80 Tuổi, Bowers Museum, 7 tháng 3, 2025.
Photo: Nguyễn Lập Hậu.



Lịch sử vốn không có hồi kết, cũng không có khởi đầu. Chỉ có những bản nhạc viết trên nền cát bụi và người ca sĩ là cơn gió đi ngang, hát lên một lần rồi biến mất, để lại những dư âm chờ ai đó nhặt nhạnh lại.

Nhưng nếu lịch sử là một kẻ khốn kiếp chỉ biết cách lặp đi lặp lại trò đùa tàn khốc của nó, thì giọng hát của Khánh Ly là một tiếng vọng, một dư chấn, một chứng nhân không thể nào bị vùi lấp. Bà hát không phải để an ủi mà để chạm vào những vết thương chưa bao giờ liền da, bà hát không để quên mà để nhớ, không để vuốt ve mà để những ai còn sống phải đối diện với ký ức.

Đó là một giọng hát đã từng bước qua những thành quách vinh quang và lụi tàn, những cơn lốc lịch sử cuốn phăng mọi giá trị, những năm tháng lưu đày trên chính quê hương mình và sau nữa, trên những vùng đất xa lạ. Bà là một ca sĩ, như một mảnh vỡ của một định mệnh dân tộc, một cánh chim lạc loài giữa trận cuồng phong lịch sử, một linh hồn lưu lạc không chỉ trên bản đồ mà còn giữa những tầng ký ức hoang hoải của thời gian.

Không ai có thể chối bỏ rằng nếu không có Khánh Ly, nhạc Trịnh Công Sơn sẽ không bao giờ có sức sống của ngày hôm nay. Một bài hát chỉ thực sự được sinh ra khi có người hát nó với đúng định mệnh của mình. Trịnh Công Sơn viết nhạc như một kẻ rót rượu vào bóng tối, còn Khánh Ly hát nhạc ông như một người uống nó đến say mèm. Họ gặp nhau không phải chỉ vì định mệnh, mà vì cả hai cùng chia sẻ một nỗi buồn trầm thống về con người, về thời cuộc, về những mất mát không gì cứu chuộc nổi. Nếu Trịnh Công Sơn là một triết gia lãng tử, một người rong ruổi trên những nẻo đường của tư tưởng, thì Khánh Ly là hiện thân của chính những triết lý ấy, là tiếng nói thành hình, là giọng ca vẽ nên toàn bộ bức tranh u ám của một thời đại.

Giọng hát của bà không mang vẻ đẹp của sự hoàn hảo, không có sự lung linh, không có chất kiêu kỳ hay sắc sảo, mà là một giọng hát cũng chờ bị bào mòn bởi bụi đường như tất cả, từng bị ngâm trong những trận mưa của Sài Gòn cũ, từng bị nung trong cái nóng thiêu đốt của những đêm dài không ngủ, đã bị vỡ vụn bởi những chuyến đi mà ngày trở lại đầy truân chuyên. Nó trầm, nó khàn, nó như một vết thương mãi mãi không liền miệng. Nghe bà hát, không ai có thể tách rời được bà khỏi những bài ca của mình. Người ta không chỉ nghe để thưởng thức, mà nghe để chịu đựng, để dằn vặt, để chấp nhận những gì đã mất là những gì sẽ không bao giờ tìm lại được.

Người đàn bà ấy, đứng trên sân khấu với mái tóc buông dài, đôi chân trần và một ánh mắt không có gì ngoài sự thản nhiên. Người ta gọi bà là "nữ hoàng chân đất," nhưng bà không phải là hoàng hậu của bất cứ điều gì ngoài nỗi buồn nhân thế. Đó là sự thản nhiên của một người đã thấy hết những gì cuộc đời có thể mang lại: những đỉnh cao, những vực sâu, những ngày tháng của ánh hào quang và những đêm dài của sự cô đơn tuyệt đối. Nếu có một người nào hát về sự mất mát mà không làm cho nó trở nên ủy mị, nếu có một người nào hát về những điều tan vỡ mà không cần phải gào thét, thì đó là Khánh Ly.

Người ta yêu bà vì bà không có gì để yêu ngoài giọng hát. Không vẻ đẹp lộng lẫy, không sự quyến rũ phù phiếm, không ánh hào quang sân khấu kiểu minh tinh, chỉ có một giọng hát như một tiếng thở dài kéo lê qua nhiều thế hệ. Giọng hát đó đã đi từ những quán cà phê nhỏ bé đầy khói thuốc ở Đà Lạt, đến những sân khấu lớn của Sài Gòn, từ những đêm nhạc trong bóng tối chiến tranh đến những buổi diễn trước hàng nghìn khán giả ở hải ngoại, từ một đất nước rách nát vì bom đạn đến một miền ký ức không còn biên giới. Bà không toan tính làm một ngôi sao. Nhưng bà là một nhân chứng.

Nếu nghe Khánh Ly hát "Diễm xưa" lúc này, người ta không còn thấy cô gái mộng mơ nào đó đứng bên song cửa mà chỉ thấy một hoài niệm bị vắt kiệt, một nỗi nhớ đã bị nấu chảy thành màu thời gian. Nếu nghe "Cát bụi", người ta không còn sợ cái chết, vì cái chết vốn đã nằm trong từng nốt nhạc. Nếu nghe "Hạ trắng", người ta sẽ không còn nghĩ đến mùa hè, mà nghĩ đến một người đi xa, mãi mãi không quay về.

Bà hát về quê hương trong khi bị lưu vong. Bà hát về hòa bình trong khi chiến tranh bủa vây. Bà hát về cái chết với nụ cười ngắt tạnh, hát về nỗi đau mà không hề rơi nước mắt. Khánh Ly chính là một nghịch lý sống – một người đàn bà bị trôi dạt, nhưng giọng hát lại là nơi neo đậu của cả một thế hệ.

Lịch sử Việt Nam có những chuỗi ngày không ai muốn nhắc đến, những cuộc chiến không ai muốn nhớ lâu. Những thân phận bị bỏ quên. Những bài hát bị cấm đoán. Nhưng chính trong những lãng quên ấy, giọng hát của Khánh Ly lại trở thành một phần ký ức. Không chỉ vì bà là một ca sĩ lớn, mà vì bà là một giọng hát rưng rưng khóc.

Không ai có thể chối bỏ từng có một thời gian dài, bà đã bị quên lãng trên chính quê hương mình. Bà trở thành kẻ lưu vong ngay cả khi tiếng hát của mình vẫn vang lên đâu đó, vẫn được hát lại bởi những thế hệ sau. Nhưng không một ai có thể thay thế bà. Bởi vì giọng hát ấy không phải chỉ là âm thanh, mà còn là những gì đã bị thời gian vùi lấp. Bà không hát để được nhớ đến, nhưng cuối cùng, chính những kẻ quên bà lại là những kẻ không bao giờ thiếu được giọng hát Khánh Ly.

Không ai có thể ngăn một ngọn gió. Không ai có thể ngăn một tiếng hát. Người đàn bà chân đất đó vẫn hát dù thế giới có xoay vần, dù thời đại có đổi thay, dù người nghe có biến mất vào quá khứ. Người ta có thể quên một đất nước, một cuộc chiến, một nền văn minh, nhưng sẽ không thể quên giọng hát đã từng là nơi neo đậu của cả một thế hệ – giọng hát đã giữ lại những gì lịch sử muốn xóa đi, giọng hát đã an ủi những kẻ không có quê hương, giọng hát đã cất lên giữa cơn bão và còn vang vọng mãi mãi.

Cuộc đời này, suy cho cùng, cũng chỉ là một bài hát buồn, ngân lên giữa cơn gió, rồi tan vào hư vô. Nhưng nếu có một giọng hát có thể níu lại những gì đã bị đánh mất, nếu có một giọng hát có thể khiến những người lưu lạc tìm thấy bóng dáng quê nhà trong những giai điệu cũ, thì đó chính là giọng hát Khánh Ly. Một giọng hát như vết thương của lịch sử, một giọng hát như hơi thở cuối cùng của một thời đại, một giọng hát không bao giờ mất.


Chốn Bụi, ngày 13 tháng Ba, 2025

Uyên Nguyên

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tổ khúc Bohemian Rhapsody do ban nhạc Queen trình bày và phát hành từ năm 1975, đến nay vẫn còn rất nhiều người hâm mộ.
Nhân kỷ niệm 50 năm kết thúc cuộc chiến ở Việt Nam, cũng là 50 năm xây dựng cộng đồng người Việt hải ngoại, Khoa Lịch sử trường Đại học California, Irvine tổ chức một chuỗi sự kiện trong 3-ngày: từ ngày 7 tới ngày 9 tháng Năm năm 2025.
Thương nhớ. Cảm động. Ngậm Ngùi. Và ước mơ một ngày quê nhà sẽ có dân chủ, khi đó Sài Gòn sẽ được hồi phục tên cũ. Đêm nhạc Trần Chí Phúc với chủ đề Sài Gòn Một Thoáng 50 Năm vào chiều Thứ Bảy 19/4/2025 đã chạm rất ngọt ngào và cay đắng vào trái tim của những người con Sài Gòn.
“Năm nay mang một ý nghĩa đặc biệt sâu sắc, là cột mốc 50 năm kể từ ngày những người tị nạn Việt Nam đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ. Nửa thế kỷ kiên cường, dựng xây và tái định nghĩa thế nào là người Mỹ gốc Việt. Trong suốt hành trình đó, nghệ thuật kể chuyện đã đóng một vai trò thiết yếu—lưu giữ lịch sử, mở rộng tương lai, và thắt chặt cộng đồng. Chính vì thế, chúng tôi vô cùng tự hào được mang đến cho quý vị VietBook Fest năm nay—không chỉ một lễ hội sách, mà một không gian để kết nối, đối thoại và tôn vinh Bản Sắc Người Việt 50 Năm.”
Ngày Thứ Bảy 29 tháng 3 năm 2025 tại Citadel Art Gallery, một buổi Ra Mắt Thơ kèm thêm Triển Lãm đã được tổ chức rầm rộ và được sự hưởng ứng nồng nhiệt của khách thưởng ngoạn. Buổi hội ngộ văn học, nghệ thuật hy hữu này có sự góp mặt của nhiều tác giả với nhiều hình thái nghệ thuật như hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, văn, thơ, sách, và âm nhạc. Gần 200 quan khách hiện diện đã làm bầu không khí nghệ thuật bừng sáng.
Sự ra đi lặng lẽ của họa sĩ Nguyễn Đồng là một một dư vang trầm mặc trong ký ức nghệ thuật Miền Nam – một miền nghệ thuật từng sống động, tự do, nơi mà hội họa được đặt ngang hàng với văn học, triết học, và cả chính trị. Ông không những là một trong những họa sĩ tiêu biểu của thời Đệ Nhị Cộng Hòa, mà còn là nhân chứng của một nền văn hóa từng rực rỡ trước khi bị chôn vùi dưới lớp bụi chiến tranh và chính trị hóa nghệ thuật.
Buổi ra mắt tuyển tập "Nguyễn Thị Khánh Minh, Bằng hữu & Văn chương – Tạp chí Ngôn Ngữ ấn bản đặc biệt" cho thấy sự đóng góp, quý trọng của nhiều nhà văn, nhà thơ đối với nhà thơ nữ này. Độ dày sách này là 544 trang, dày gấp nhiều lần các thi tập trước kia của nhà thơ nữ này. Nơi đây cũng lưu giữ những ký họa, tranh bìa, thủ bút, thơ tặng, bình luận từ hơn 40 văn nghệ sĩ cho Nguyễn Thị Khánh Minh, trong đó có các tên tuổi lớn như Thầy Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Đinh Cường, Đinh Trường Chinh, Trịnh Cung, Trương Đình Uyên, Lê Thánh Thư, Đỗ Hồng Ngọc, và nhiều người khác.
Họa sĩ Hồ Thành Đức sinh năm 1940 tại Đà Nẵng, Quảng Nam. Ông tốt nghiệp Cao Đẳng Quốc Gia Mỹ Thuật Sài Gòn, sáng lập viên của Hội Họa sĩ Trẻ Việt Nam (1968-1975), Giáo sư hội họa Viện Đại Học Vạn Hạnh (1969-1975), Khoa trưởng ngành Họa Thực Tiễn tại Đại Học Phương Nam (1974-1975). Ông đã có rất nhiều cuộc triển lãm trong và ngoài nước. Tranh của ông cũng có mặt tại nhiều viện bảo tàng danh tiếng trên thế giới trong đó phải kể đến Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Smithsonian tại thủ đô Washington. Tranh của ông được đánh giá cao bởi nhiều cây bút phê bình hội họa trong và ngoài nước..
“Để có thể nối kết đồng cảm ý nghĩa và tình tự của một ca khúc với người nghe, người hát cần hiểu ca từ sâu sắc và rung động với tâm tình trong lời và nhạc.”
Một lần tôi bất chợt nghe Khánh Ly hát: Ta không thấy em từ bấy lâu nay, mùa mưa làm rừng đước dâng đầy/trên cao gió hát mây như tóc/tràm đứng như em một dáng gầy. Mỗi con lạch là mỗi xót xa, mỗi giòng sông là mỗi tuổi già, thành phố đâu đây khuất hình khuất dạng, cuộc chiến già nua theo mỗi tiếng ca…. (Thơ U Minh- Nguyễn Tiến Cung, Phạm Duy phổ nhạc.) Tiếnh hát của chị rời rạc, kể lể. Bài hát không có tiếng súng tiếng bom nào cả, nhưng qua cái giọng nhừa nhựa chẫm rãi của chị ta thấy như những trang sách viết về chiến tranh đang lật từng tờ và người lính đó đang bì bõm trong rừng đước U Minh. Anh không bao giờ còn gặp lại người yêu nữa. Anh tử trận hay người yêu đã bỏ đi xa? Kết thúc nào cũng buồn cả. Tôi nghe đi nghe lại nhiều lần đoạn hát giản dị này và lúc nào nghe cũng ứa nước mắt.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.