Hôm nay,  

Cuộc Ngưng Chiến Không Có Thật

30/01/202511:09:00(Xem: 2753)
 
Minh họa Đinh Trường Chinh
Minh Họa Đinh Trường Trinh 

Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…”
Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…

Rồi các nhật báo Việt Nam ở những sạp báo dưới phố đã nhanh chóng phát hành,loan tin Việt Nam sắp có đình chiến, sắp trung lập đến nơi rồi. Mỹ đã ký Hiệp Định ngưng bắn với Bắc Việt.

Chị lúc đó, khi thì chạy lăng xăng theo mấy ký giả, lúc thì ngồi thừ người ở bàn giấy của mình nghiêng tai nghe hai chữ “Đình Chiến” nhìn mọi người chạy qua chạy lại trước mặt mình.

Ông Xếp bảo: Cô chạy sang bên Macv xem có gì mới thì gọi báo về, sang bên Chiến Tranh Chính Trị, Đài Phát Thanh Quân Đội xem họ có thêm Bản Tin mới nào nữa không? Ông nói xong thì lại quên luôn vì ông đang chúi đầu vào đọc những dòng telex mới.

Chị ngồi thừ trên bàn viết của mình, như không nghe thấy ông nói gì, mặc dù bàn của ông và của Chị đối diện nhau, trong cái buồng khoảng hơn 4 mét vuông.

Trong tai Chị, lùng bùng hai chữ “Hòa Bình” trong đầu Chị trôi lềnh bềnh hai chữ “Ngưng Bắn” Đầu chị như một cái ao nhỏ và mấy cái chữ này như mấy cánh hoa lục bình…bập bềnh…bập bềnh…trôi.

“Ngưng bắn”, thế có phải là Trung Lập, là Hòa Bình không? Hòa Bình là hết bắn nhau, là hết bom đạn, hết bị thương, hết tử trận…và những người lính được giải ngũ về với gia đình.

Hết bắn nhau thì những người lính sẽ được buông súng trở về với nhiệm sở cũ của mình hoặc kiếm công việc an bình hơn.

Người dân miền Nam sẽ không lo pháo kích, không lo bị đặt chất nổ ở những nơi công cộng, làng xã những vùng “xôi đậu” không lo ban ngày quốc gia, ban đêm cộng sản về. Hạnh phúc hơn nữa anh em, họ hàng chia ly từ 1954 có thể tìm về đoàn tụ với nhau… Ôi thật là bao điều kỳ diệu sẽ xẩy ra cho người dân cả hai miền Nam Bắc.


Bất giác Chị thấy sao lòng mình lại quặn thắt, nước mắt Chị bỗng ứa ra. Chị lấy khăn lau vội và Chị rời văn phòng, không báo cho ai biết, chị đi vào thang máy xuống phố.

Chị hòa vào đám đông dưới phố. Người ta đang tụ tập tùng nhóm nhỏ trước những sạp báo. Họ đang chúi đầu vào cùng một trang báo, tìm hai chữ “Đình Chiến” hai chữ “Ngưng Bắn”. Chị tránh đám đông đi bộ về hướng bến Bạch Đằng, con đường hơi dài nhưng với Chị bây giờ đường ngắn hay dài Chị cũng thấy như nhau, chị cần bỏ đám đông, bước đi, đi đâu cũng được, vì đầu óc Chị chỉ biết có một điều:

Dù “Ngưng Bắn”, dù “Hòa Bình” Anh cũng không bao giờ về nữa.
Em đã thấy xôn xao trong thành phố
Người ta đang nói hai chữ “Hòa Bình”
Em đã đọc trên từng trang nhật báo
Người ta viết rằng Việt Nam sẽ tàn lụi chiến tranh
Em đã nghe những bài hát hiền lành
Trên môi người ca sĩ
Những bài ca xanh mộng hòa bình
 
Ôi tất cả đều ôm lòng non dại
Từ cụ tám mươi tới đứa trẻ lên ba
Ôi giấc mơ đã xóa mất tuổi già
Để tóc bạc thấy mùa xuân trở lại
Ôi ngày mai nếu thanh bình em sẽ thấy
Những người lính mất tay mất chân
Cũng rủ nhau tìm ra Hà Nội
Những người mù
Những đứa bé mồ côi
Những khăn tang cũng tìm được tiếng cười
Sẽ chấm dứt bom rơi đạn nổ
 
Nhưng hòa Bình rồi
lòng em vẫn không vui
 
vì Anh đã bỏ đi trước khi ngưng tiếng súng.
vì Anh đã chết trước khi được nghe hai chữ “Hòa Bình” (tmt-1973)
 
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, tờ New York Time đã tường trình một tin mới nhất về một thỏa thuận ngưng chiến giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam tại Paris. Nhưng Cộng Sản không bao giờ nghiêm chỉnh trong những lời hứa, dù lời hứa được cam kết bằng bút mực. Súng đạn vẫn tiếp tục nổ tại miền Nam và người dân vô tội vẫn chết ngay trên ruộng đất của mình, làng mạc vẫn cháy, trẻ em vẫn mồ côi cha, người vợ trẻ vẫn phải chôn chồng. Cộng Sản là những người không bao giờ nói thật, và lừa dối ngay cả trên văn bản, chữ viết, cho nên Bản thỏa thuận dù có chữ ký hai bên không hề được thực thi đứng đắn.
 
Bài Thơ cho một “Hòa Bình” không có đích danh là những giọt lệ không bao giờ khô trong mắt chị.
 
Trần Mộng Tú 
Tháng 1-2025 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.