Hôm nay,  

‘Ăn Chay’ Với Yeong-hye

22/11/202400:00:00(Xem: 890)

Capture
 
Tôi bước lên chuyến xe buýt, đúng với tuyến đường Han Kang đã chỉ cho In-hye, chị Yeong-hye đi. Núi Chuk-sung hôm nay không ẩm ướt. Những gốc cây to không mang vẻ “run rẩy trong mưa.” Ngược lại, nó trầm mặc, bất động, vì hôm nay trời không mưa gió.
 
Bệnh viện nơi Yeong-hye trú ngụ hiện ra giữa những con núi. Ngôi nhà trắng toát, nhỏ bé lọt thỏm giữa thiên nhiên. Thần núi, thần rừng bao quanh, sẵn sàng che chở những linh hồn đi lạc. Nơi này, Yeong-hye và nhiều người khác nữa, tách biệt khỏi thế giới bên ngoài. Họ sống đúng với bản năng cây cỏ, hào phóng cho mầm sống vươn ra từ bất cứ nơi nào trên cơ thể mình. Nơi này, không ai cần hiểu vì sao “đứa trẻ bé như thế… lúc mới sinh ra ai cũng thế này à?” Nơi này, không có những ánh mắt ái ngại, tò mò nhìn vào hai đầu nhọn nổi lên phía trước ngực Yeong-hye. Nơi này không phải là nơi cho loài người sống cuộc đời cam chịu như chị của Yeong-hye, “rời khỏi nhà từ năm 19 cuổi, một thân một mình không nhờ vả bất cứ ai để bươn chải cuộc sống ở Seoul” hoặc luôn phải “nấu canh giải rượu cho bố.” Nơi này, càng không phải dành cho những người chọn nắm đấm để giải quyết vấn đề như bố của Yeong-hye.
 
Yeong-hye đang trồng cây chuối. Chị của Yeong-hye đã báo trước em mình muốn trở thành một cái cây – cái cây nở hoa, tự mình vươn lên đón ánh nắng. “Cây Pháo Hoa”, vùng đất Yeong-hye đang ở là không gian ngập tràn ánh sáng, chứ không u ám, sợ hãi, vương vãi máu và lãnh cảm như nơi cô từng sống với người chồng cũ và trở thành “Người Ăn Chay” chỉ sau một đêm; cũng không có những cảm xúc vừa bản năng vừa vô hồn từ “Vết Chàm Mongolia.”
 
Tôi bước đến, ngồi xuống bên cạnh Yeong-hye, chậm rãi nói:
 
-          Yeong-hye, tôi biết giấc mơ đó.
 
-          Đã nằm mơ à?
 
Yeong-hye hỏi, vẫn giữ tư thế trồng chuối.
 
Tôi lắc đầu, lẩm bẩm:
 
-          Chị ấy nằm mơ. Trước mặt chị ấy là một tô phở nóng. Trong tô đầy thịt, nhưng là thịt người. Rồi chị ấy ăn chay, từ một tháng nay.
 
Yeong-hye bật người lại, ánh mắt hoàn toàn không cảm xúc, ánh mắt khô như vỏ cây cổ thụ.
 
-          Đừng ăn. Không thích ăn. Ghét ăn. Tại sao phải ăn.
 
Tôi nhìn Yeong-hye bước đến cạnh cửa sổ. Cô rướn cơ thể gầy gò ra ngoài ô cửa, ngửa mặt lên trời cho ánh nắng hắt thẳng vào. Đôi mắt Yeong-hye vẫn mở to nhất định không nhắm lại vì cái chói chang của tia mặt trời. Những cây cổ thụ cao to bên ngoài cũng thế. Chúng nó không phải nhắm mắt. Một trong những nguyên tắc sinh tồn của cây là luôn tìm ánh nắng để nghiêng về. Yeong-hye cũng thế.
 
Nhưng những người trong gia đình của cô không biết điều đó. Họ không biết Yeong-hye cần gì, dù đó là khi cô chọn im lặng hoặc đã phải gào lên kháng cự bằng máu trong thanh quản.
 
Tôi muốn nhìn thẳng Yeong-hye, để hiểu vì sao người phụ nữ kia nằm mơ, rồi ăn chay, nhưng gương mặt không giống với Yeong-hye của Han Kang trong “Vết Chàm Mongolia”? Han Kang kể, Yeong-hye đã vượt thoát cùng với vết chàm định mệnh ấy, là một đứa trẻ ngây thơ hồn nhiên, sống hoàn toàn ngoài vòng vẫn đục.
 
Nụ cười của cô trong vắt, thiêng liêng, đối lập hoàn toàn với những tiếng kêu thất thanh cắt da cắt thị của “Người Ăn Chay” và ‘Vết Chàm Mongolia.”
 
Đến cả những dòng nước trong cơ thể cô khi tuôn ra cũng bất cần phải có nhục cảm bản năng con người.
 
Từ khi Yeong-hye vào bệnh viện, những người từng ảnh hưởng đến cuộc đời cô đều biến mất như chưa từng xuất hiện. Han Kang không cho họ vào thăm, dù là máu mủ. Dù vết chàm Mongolia vẫn còn đó nhưng những bông hoa nở chung quanh nó đã tàn lụi. Những bông hoa chỉ có một đời.
 
Mỗi một mình In-hye, chị của Yeong-hye bên cạnh, với sứ mệnh là đẩy ra hết những bi kịch gia đình đã che dấu suốt mấy chục năm qua. In-hye không lãnh phần bi kịch thay cho Yeong-hye, mà chính là Yeong-hye giúp chị phải đẩy ra hết những phần đã chết trong nửa phần đời trước, và chấp nhận bi kịch trong nửa phần đời còn lại.
 
“Mỗi lần giặt chiếc quần đẫm máu không hiểu vì lý do gì mà cô cứ liên tưởng tới hình ảnhdòng máu ở cổ tay Yeong-hye phụt ra cách đó mấy tháng. Sợ đi đến bệnh viện nên cứ ngày nàyqua ngày khác lần lữa việc đi khám…”
 
Nỗi sợ hãi và sức chịu đựng bám lấy gia đình của Yeong-hye, lâu ngày hóa thành rễ, thành những mảnh xù xì chai cứng theo thời gian. Mỗi người họ có cách ứng phó với bi kịch đó. Bố của Yeong-hye chọn rượu. Mẹ Yeong-hye chọn căn bếp. Em trai Yeong-hye chọn cách ra đường đánh lại người khác sau mỗi trận đòn của bố. Yeong-hye chọn cách nài nỉ chị “đừng trở về nơi đó nữa”. In-hye chọn sự cam chịu. Yeong-hye lấy chồng, đơn giản như cách cô cởi bỏ một nút áo ngực và mặc kệ ánh nhìn soi mói của thế gian. 
 
Những phẫn uất tiềm ẩn mãi mãi không hiện sinh nếu Yeong-hye không mơ thấy giấc mơ đó – giấc mơ không ai biết. Nhưng đó là giấc mơ có thực. Vì nó đã lột trần ra hết sự ích kỷ của những người ruột thịt, những người cùng chăn gối khi đối đãi với nhau. Nó chứng minh tình yêu vợ chồng, tình yêu gia đình mà Yeong-hye đang sống chỉ là sự trói buộc sở thích, cảm xúc của nhau. Ở nơi đó, In-hye, Yeong-hye, và cả những người chồng của họ, không có quyền sống thật với chính mình. Tất cả những gì trái ngược với cách con người tồn tại trong thế gian này đều là bất bình thường, đều không có quyền.
 
Tôi bước đến gần Yeong-hye, tự hỏi khi đã vào đây, cô sẽ được quyền không ăn?
 
Không. Tôi đã lầm.
 
Han Kang kể, bị kịch cuối cùng của Yeong-hye là “không được quyền chết!”
 
Người ta vẫn buộc cô phải truyền dịch để sống. Phản kháng cuối cùng khi sức tàn lực kiệt của Yeong-hye là máu trào ra từ phổi, từ tim, từ nội tạng. Và họ lại chuyển viện cho cô để cô “được sống.”
 
Tôi tạm biệt Yeong-hye. Con đường quanh co núi Chuk-sung dẫn ra ngoài đầy mùi cây cỏ. Tôi chợt hiểu tại sao Yeong-hye luôn ao ước hóa thành cây cổ thụ kia. Vì cây to chỉ cần ánh nắng để sinh tồn. Khi gió thổi, những cành và tán lá của nó vẫy gọi nhau.
 
“Chị, tất cả cây cối trên đời này hình như đều là anh em của nhau.”
 
Khi trời ngừng gió, chúng nó cùng im lặng tuyệt đối, tận hưởng thế giới riêng của mình. Không làm đau đớn nhau. Không nhìn nhau bằng những ánh nhìn dò xét nghi kỵ.
 
Rồi Yeong-hye có thành cái cây đó không? Không biết. Han Kang chỉ nói rằng, cả In-hye lẫn Yeong-hye đều không biết “khi nào sẽ tỉnh lại.”
 
“Trong mơ, cứ tưởng như đó là tất cả sự thật. Nhưng khi tỉnh dậy sẽ biết là không phải... thế cho nên, đến lúc nào đó chúng mình cũng tỉnh lại, khi đó…”
 
Và tôi cũng chợt hiểu, vì sao gương mặt của người phụ nữ ăn chay vì nằm mơ thấy một tô phở đầy thịt người không có những khoảnh khắc giống với gương mặt trẻ thơ, vô hồn của Yeong-hye.
 
Vì Yeong-hye phải tiếp tục kháng cự và chịu đựng!
 
Kalynh Ngô
   

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lần này không có hy vọng nào cho ông nữa, đó là cú đột quỵ lần thứ ba. Đêm này qua đêm khác, tôi đi ngang qua ngôi nhà (lúc đó là ngày nghỉ) nhìn vào ô cửa sổ sáng đèn, và đêm này qua đêm khác, tôi thấy nó sáng cùng một cách, mờ nhạt, rầu rầu...
“Quê người trên đỉnh Trường sơn Cho ta gởi một nỗi hờn thiên thu.” Lần đầu tiên tôi cảm nhận Tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn ở một góc nhìn mới. Lòng tôi như đứa trẻ thơ được trở về trong vòng tay mẹ hiền sau bao năm lưu lạc. Trường Sơn trước mắt tôi thật thơ mộng, u trầm và hùng vĩ. Núi tiếp núi. Từng đàn cò trắng lượn bay giữa những cánh đồng lúa xanh trải dài bất tận, ngút ngàn. Dường như mây trời và khói núi quyện vào nhau để xoá nhoà đi ranh giới giữa mộng và thực. Theo dấu chân Người, tôi tìm về Trường Sơn. Để nhìn thẳng vào chân diện mục của Trường Sơn và cũng để “gởi một nỗi hờn thiên thu”.
Không biết vì sao tôi có cái máu thích tư tưởng triết lý từ hồi còn trẻ. Do vậy, tôi rất mê đọc sách triết, sách tư tưởng, và dĩ nhiên sách Phật. Cũng vì cái “nghiệp dĩ” ấy mà khi lần đầu tiên được theo Ôn Từ Quang (tức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Phúc Hộ) vào tùng chúng an cư tại Viện Hải Đức, Nha Trang, vào mùa hè năm 1976, tôi thường vào thư viện để kiếm sách đọc.
Câu thơ “Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” của thi hào Nguyễn Du, nhiều người từng nghe qua, nhưng có thể không rõ xuất xứ ở đâu. Đó là hai câu kết trong bài thơ thất ngôn bát cú “Độc Tiểu Thanh Ký” (Đọc Bút Ký Tiểu Thanh), trong “Thanh Hiên Thi Tập”...
Lần đầu tiên xảy ra vào mùa đông sau khi cô tròn mười sáu tuổi. Ngôn ngữ đã châm chích và giam cầm cô như quần áo làm từ hàng ngàn cây kim đột nhiên biến mất. Những từ ngữ vẫn đến được tai, nhưng giờ đây một lớp không khí dày đặc đệm khoảng không giữa ốc tai và não. Bị bao bọc trong im lặng mù sương, những ký ức về chiếc lưỡi và đôi môi đã từng sử dụng phát âm, về bàn tay đã nắm chặt cây bút chì, trở nên xa vời. Cô không còn suy nghĩ bằng ngôn ngữ nữa. Di chuyển, không cần ngôn ngữ và hiểu, không cần ngôn ngữ, như cô đã từng làm trước khi học nói - không, trước khi có được sự sống. Im lặng, hấp thụ dòng chảy thời gian như những quả bóng bông, bao bọc cơ thể cả bên ngoài lẫn bên trong.
Băng hình này thực hiện để cúng dường Tam Bảo. Nội dung dựa trên nhiều bản dịch khác nhau của Thầy Thích Minh Châu, Daw Mya Tin, Weragoda Sarada Thero, và nhiều Thầy trên Sutta Central và Access to Insight.
Giải Nobel Văn học năm 2024 đã được trao cho Han Kang, một tác giả người Nam Hàn, vì "văn xuôi thơ mãnh liệt đối mặt với những chấn thương lịch sử và phơi bày sự mong manh của cuộc sống con người". Han Kang sinh ra tại Gwangju, Nam Hàn, cô chuyển đến Seoul khi mới mười tuổi. Cô học văn học tại Đại học Yonsei. Các tác phẩm của cô đã giành được Giải thưởng Văn học Yi Sang, Giải thưởng Nghệ sĩ trẻ ngày nay và Giải thưởng Tiểu thuyết Văn học Nam Hàn. The Vegetarian (Người Ăn Chay), tiểu thuyết đầu tiên của cô được dịch sang tiếng Anh, Portobello Books xuất bản năm 2015 và giành Giải thưởng Man Booker Quốc tế năm 2016. Cô sống tại Seoul. “Trái Cây Của Vợ Tôi”, Han Kang viết câu chuyện này vào năm 1997, cũng là tiền thân trực tiếp cho cuốn tiểu thuyết The Vegetarian năm 2007 – trong cả hai tác phẩm, một cặp vợ chồng ở độ tuổi đầu ba mươi thấy cuộc sống vốn bình lặng bị xáo trộn khi người vợ biến dạng thân thể.
Nhà văn nữ Han Kang người Nam Hàn đã đoạt giải Nobel Văn học 2024 nhờ “phong cách văn chương không chỉ đậm chất thơ mà còn sâu sắc, ý nghĩa, phản ánh những chấn thương lịch sử và thân phận mong manh của cuộc sống con người.” Ở tuổi 53, bà trở thành nữ nhà văn Nam Hàn đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học, đồng thời là nữ nhà văn thứ 18 trong tổng số 121 nhà văn đoạt giải thưởng danh giá này cho đến nay. Bên cạnh sự nghiệp văn chương, Han Kang còn là một nhạc sĩ và có niềm đam mê với nghệ thuật thị giác (visual art).
Ba cuốn sách: Tiểu thuyết “Đường Về Thủy Phủ”; Tập truyện “Người Đàn Bà Khác”, và Tạp chí Ngôn Ngữ ấn bản đặc biệt Trịnh Y Thư, đã được ra mắt lần đầu tiên tại Coffee Factory, Westminster, Nam California vào lúc 4 giờ chiều Thứ Bảy, ngày 12 tháng 10 năm 2024, với sự tham dự của nhiều văn nghệ sĩ, các bằng hữu xa gần, các cơ quan truyền thông báo chí, và thân hữu của nhà văn Trịnh Y Thư. Mặc dù một buổi chiều Thứ Bảy với nhiều tổ chức sinh hoạt của các hội đoàn đoàn thể, các nhạc hội vận động tranh cử của các ứng cử viện gốc Việt đã tổ chức cùng một lúc, thế mà số người đến tham dự hơn 150 thân hữu và quan khách đã ngồi chật bên trong quán café, có lẽ vì Trịnh Y Thư là người đã sống và lăn lộn với nền văn học hải ngoại hơn mấy chục năm nay, cũng có lẽ vì Ông là một người bạn chân tình luôn hết lòng với bạn văn nghệ và được mọi người hết mực yêu mến.
Thế kỷ 19 có một sự cộng tác đặc biệt của một số người Minh Hương ở Chợ Lớn và các nhà khắc ván ở vùng Phật Trấn (Quảng Đông, Trung Quốc) để thực hiện khắc ván, in và phát hành sâu rộng những tác phẩm Việt Nam viết bằng chữ Nôm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.