Hôm nay,  

Sen Cười Bùn Bụm Miệng

21/06/202400:00:00(Xem: 2603)

11

Không thể chối cãi, trong đầm không gì đẹp bằng sen. Đúng hơn nữa, trong đầm không gì thơm hơn sen. Nhưng vì sao sen lại mọc trong đầm bùn? Vì sao sen không mọc sánh vai cùng Cẩm Chướng, Mẫu Đơn, Hồng Nhung, Anh Đào, Thiên Điểu, Oải Hương, Hướng Dương, vân vân trong những vườn quyền quý cao sang, những nơi chưng bày lộng lẫy? Vì sao sen lại chọn ngâm mình trong nước hôi tanh? Vì sao trong tất cả loại sen, tôi lại quý sen hồng, trong khi đa số yêu sen trắng?

Sen và bùn là một lý thuyết chính trị cần thiết cho Việt Nam hiện nay. Hoa sen phải mọc từ bùn, trong bùn. Không thể mọc ở những nơi không có bùn. Vì sao hoa sạch thơm phải mọc và sống từ nơi dơ thúi? Rồi sen phải vượt lên khỏi mặt nước mới nở được hoa đẹp, hoa thơm, nhưng vẫn cần có bùn để tồn tại. Một quá trình hiện thực, một ẩn dụ để tư duy.

1. Sen và Bùn.

Người không thích bùn, thậm chí, ghét bùn vì bùn tanh thúi mùi lộn mửa. Bùn kéo chân trì trệ bước tiến và đôi khi bùn có khả năng chôn vùi con người. Nguy hiểm hơn, bùn chứa nhiều loại vi trùng hãm hại và động vật sát nhân.

Người yêu sen vì sen đẹp đơn giản mà thơm siêu thoát. Khó ai có thể yêu hoa sen như Chu Đôn Di, trong bài Ái Liên Thuyết, ông ví tính sen như tính quân tử. (1) Một so sánh cường điệu, vì sen có thật, còn đúng người quân tử thì chưa thấy.

Nhà Phật chọn hoa sen trắng như một biểu tượng lòng trong trắng thánh thiện, một mức độ lý tưởng cao xa mà loài người khó đạt đến. Mấy ai trắng được như sen? Còn thơm, loài người ít ai tự nhiên hương, đa số tự nhiên hôi, đó là lý do dầu thơm là một trong vài loại sản phẩm bán chạy nhất trong lịch sử nhân loại. Vì vậy, bùn dễ ví với tiểu nhân, mà sen khó ví với quân tử. Có quân tử nào trong trắng và thơm tho như sen? Kể cả mấy ông Tử? Tiểu nhân là thực tế. Quân tử là lý tưởng, tức là ảo ảnh.

Với lý tưởng khó khăn đó, nên chọn sen hồng. Nghĩa là, không chọn trong trắng mà chọn nhiệt huyết; không chọn thánh thiện mà chọn can đảm; không chọn cầu nguyện mà chọn hành động; không chọn ảo tưởng mà chọn thực tế; không chọn đời sau mà chọn đời này. Hồng tâm, trái tim đỏ cần thiết cho đất nước tôi.

Như sen cần thiết cho bùn. Nếu không có sen, đầm bùn chỉ ngàn năm hôi thúi. Nếu không có sen, ai thèm đến tắm: Rủ nhau ra tắm hồ sen. Nước trong bóng mát hương sen cạnh mình. (Ca dao.)

2. Đất nước tôi chờ hội mùa sen.

12
(Ảnh Nhựt An: Bản đồ Việt Nam tạo ra từ những chậu hoa sen trên mặt hồ Khổng Tử, Công viên Văn Miếu, phố Cao Lãnh.)
Đất nước tôi ẩn dụ như một đầm nước tù đọng có bùn, có sen; có tiểu nhân, có quân tử; có người xấu, kẻ gian, có người tốt, kẻ tử tế. Dĩ nhiên ở đâu cũng vậy, cũng có tốt có xấu, nhưng đặc biệt nghĩ về nước tôi vì đất nước đó của tôi, của chúng ta.

Đầm nước không nối được sông, không thông ra biển. Bị tù túng, bị chèn ép, chỉ mong chờ may mắn nơi khí hậu bốn mùa. Có mưa mực nước dâng lên, cá cua sinh sản. Nắng hạn, nước cạn, cá nghèo, cua khổ. Trên đầu có Trung quốc, bên trái có Mỹ, bên phải có Nga, dưới chân có bùn lầy thối nát. Bước không vững. Đi, đi đâu?

Bàn đến tài năng, nước ta có nhiều tài năng lãnh đạo chống xâm lặng, làm cách mạng, chỉ huy chiến tranh và chiến đấu anh dũng, nhưng ít tài năng lãnh đạo làm cho hòa bình tốt hơn, độc lập hơn, tự cường hơn, tự hào hơn. Họ Nguyễn rất nhiều mà ít Nguyễn Trãi. Họ Đào không phải khan hiếm, sao chỉ có Đào Duy Từ? Họ Lê thì vô số, Lê Quý Đôn ở đâu? Biết họ ở đâu mà tìm? Đi từ bắc vào nam, vô số đường mang tên anh hùng sa trường, tài năng lãnh đạo thời chiến. Có bao nhiêu đường mang tên lãnh đạo thời bình? Biết họ ở đâu mà tìm. Nhưng tài năng lãnh đạo hòa bình hưng thịnh như những mầm sen nằm trong bùn, tìm đâu xa? 

Tài năng lãnh đạo thời chiến và tài năng lãnh đạo thời bình khác nhau. Kẻ giỏi tấn công, tướng tiên phuông, không phải là tướng thủ thành giỏi, vì hiểu biết-suy nghĩ khác nhau, cá tính khác biệt, và giá trị thành công không giống nhau. Lãnh đạo giỏi thời chiến thì giỏi chiến lược, chiến thuật, tuyên truyền; giỏi điều khiển quân tướng. Lãnh đạo giỏi thời bình tất nhiên phải khác. Lãnh đạo thời chiến lấy sự chiến bại của địch quân làm vinh quang thành công. Lãnh đạo thời bình dùng trí tuệ văn hóa và ấm no vật chất của dân làm mức đo thành tựu. Những lãnh đạo thời chiến nào tự nghĩ mình có khả năng lãnh đạo thời bình, nên đi thử máu lại.

Thời bình mà nằm trong tay lãnh đạo thời chiến thì lòng lăm le chiến tranh. Luôn nghĩ đến chiến đấu để thắng kẻ đối đầu: chiến đấu chính trị, chiến đấu kinh tế, chiến đấu xã hội, chiến đấu giáo dục, chiến đấu văn hóa, chiến đấu văn chương, chiến đấu nghệ thuật, vân vân, chiến đấu luôn cả chiến đấu. Quen rồi, máu rồi. Mọi kế hoạch đều như chiến lược, chiến thuật ngắn hạn nên nhằm đến thành công ngắn hạn dù thất bại trên đường dài. Tuyên truyền và ngoại giao khác nhau rất xa về mặt thuyết phục đối phương. Tuyên truyền không có thông cảm, đồng cảm. Ngoại giao luôn luôn có thông cảm khi khác biệt và đồng cảm khi thành công. Lãnh đạo giỏi về tuyên truyền chưa hẳn hiểu sức mạnh của ngoại giao.

Ngoại giao không phải là vũ khí mà là phương tiện năng lực và hữu hiệu cao độ cho những quốc gia nhỏ lúng túng, tấn thối lưỡng nan trong bàn cờ thế giới. Ví dụ, phong cách ngoại giao của Thụy Sĩ trong thế chiến thứ hai.

Đất nước tôi như một đầm lầy mà bùn hôi là sản phẩm của chiến tranh, của thiếu hiểu biết, và của tự hào không muốn hiểu biết; tự hào vì không muốn tự nhận là lười biếng. Hệ thống lãnh đạo thường xuyên nằm trong tay các tài năng lãnh đạo thời chiến, với vô thức và thói quen cũ, họ xem việc đấu đá, chiến tranh với nhau là lẽ tự nhiên. Ở trong thời bình mà lòng dạ, tư duy chiến tranh thì hòa bình làm sao hưng thịnh? Hạ tầng cơ sở của hệ thống lãnh đạo, đa số, là những nhân vật có công thời chiến. Họ là những người có tài năng chiến đấu, nhưng không biết phải làm gì với khả năng xông pha trận mạc, công thành, phá địch, dọ thám, công an, nằm vùng, vân vân, khi không còn chiến tranh. Họ xa lạ với chia cơm xẻ áo sống chung hòa bình. Từ ngàn xưa cho đến nay, tuy hình thức thay đổi nhưng nội dung vẫn vậy, kẻ chiến thắng đòi hỏi phải được đền trả công trạng và lợi ích. Việc giành đất, tịch thu của cải, phân chia tài sản của phe thất bại, đối với họ là chuyện đương nhiên. Lãnh đạo thời chiến thấy đúng. Phó lãnh đạo thấy đúng. Các chiến sĩ thất nghiệp thấy đúng. Thường dân dù thấy sai, phó thường dân dù bất mãn, làm được gì? Vì ý thức và hiểu biết từ chiến tranh của họ là như vậy.


Một điều nữa chắc chắn đúng, chiến tranh trực nghĩa là giết kẻ thù và chiếm lấy những gì của kẻ thua. Bận rộn như vậy, làm sao có giờ học hành, mở mang trí tuệ. Sự hiểu biết kiến thức chỉ là cơ bản của tri thức. Phải tiêu hóa kiến thức để hiểu biết trở thành kinh nghiệm thực hành hoặc kinh nghiệm tư duy thì nhận thức mới sâu đậm, rộng mở, và hữu hiệu khi hành động. Việc này cần thời gian lâu dài. Chiến tranh thường làm cho những kẻ tham dự chiến tranh ngu đi. Huống hồ chi chiến tranh kéo dài năm này tháng nọ, từ trẻ cho đến già, thì làm sao đa số chiến sĩ có khả năng lãnh đạo thời bình?  Lãnh đạo và hệ thống lãnh đạo nếu không có tâm trí hòa bình thì làm sao thực hiện hòa bình? Dùng tâm trí chiến tranh để xây dựng hoà bình, sẽ tạo nên hòa bình giả dạng.

Hãy thử hỏi những lãnh đạo cao cấp trình một luận án về bộ chuyên môn của mình với những kế hoạch, sáng kiến, tư tưởng để làm tốt đẹp hơn, giá trị hơn trong tương lai năm năm, mười năm, hai chục năm, xem có xứng đáng không? Ví dụ, lãnh đạo giáo dục, kế sách, chương trình phát triển là gì? Lãnh đạo kinh tế, làm sao để tự cường, tự độc lập tài chánh? Lãnh đạo tối cao, làm sao vuốt ve tham nhũng cho nó bớt tham lam? Lãnh đạo giỏi không thể sử dụng kế sách kém giá trị, không thể hành động ngẫu nhiên, ngắn hạn, tùy nghi, càng không thể tự thỏa thuận với khả năng biết rõ của bản thân.

Thời bình là lúc phát huy văn hóa, văn học và nghệ thuật. Nếu không, thời chiến sẽ làm cho văn hóa, văn học, nghệ thuật thêm lụn bại. Một ví dụ ngắn: Vì không nắm vững giá trị thi ca ở nơi nào, nên bộ giáo dục mang những bài thơ kém giá trị vào dạy trong chương trình học đường. Bộ giáo dục cổ động và tạo ra một dòng thơ dài lớn mà kém giá trị cho các thế hệ sau. Muốn truyền cái giỏi thì khó khăn, cái dở cái kém không cần truyền, chúng tự động đến. Giáo dục là việc quan trọng cho tương lai dân tộc và đất nước, sao lại giảng dạy những thứ kém giá trị, rồi than phiền, đất nước thiếu nhân tài. 

13
(Ảnh: Sen và bùn. Giác Ngộ Online.)
Tuy nhiên, không phải hoàn toàn thất vọng. Khi nói đa số thì tất nhiên có thiểu số. Trong lớp bùn dày kia, nhất định có những mầm sen. Đã có mầm, trước sau gì sen sẽ nở, sẽ đẹp, sẽ thơm.

3. Sen cười.

Việt Nam không cần nội chiến, không cần cách mạng, không cần chỉnh lý, chỉ cần một phần của Mikhail Gorbachev. Một hồng tâm yêu nước. Một can đảm hành động cho mục đích dân tộc và quê hương. Không cần phải là sen trắng vì thánh thiện dành cho tôn giáo. Sen hồng dành cho chính trị thời bình.

Đầm bùn đó khởi đầu nở ra một sen hồng. Mùi thơm biến mất trong mùi thúi. Rồi hai sen, ba sen, mười sen, mùi hương bắt đầu pha loãng mùi tanh. Đến khi mùa sen nở rộ, bùn vẫn còn đó, không một ai thất bại, thất vọng vì kể cả bùn sình cũng yêu thích mùi thơm. Bùn và sen chung sống với nhau. Sen nhờ bùn mà ra hoa. Bùn nhờ sen mà thơm lây. Cơ bản chiến tranh là tiêu diệt. Cơ bản hòa bình là sống chung. Điểm cốt lõi trong lý thuyết Sen và Bùn là Không tiêu diệt nhau, nương tựa nhau mà sống. Đây cũng là con đường chính trị thế giới trong thế kỷ 21: “political metamodernism”. (Chủ nghĩa chính trị kết hợp hiện đại.)

Nhiệt tâm làm đất nước hưng thịnh, không nhất định phải tiêu diệt cái xấu, vì tất nhiên, không bao giờ có thể thành công. Cái xấu như cỏ, cắt tận gốc, chỉ cần một cơn mưa sẽ mọc lên xanh dờn. Đào hết rễ, chỉ cần một thời gian, cỏ sẽ xanh trên mồ kẻ giết cỏ. Nhiệt tâm làm đất nước hưng thịnh chú trọng phát huy, phát triển cái tốt, cái đẹp, tự nhiên cái xấu dần dần bị lãng quên. Có mấy ai sống mà không muốn làm người tốt? Nhưng đa số không biết phải làm sao để trở thành tốt khi lòng tham, lòng dâm, trí giới hạn là sự hiểu biết mà họ cho là đúng hoặc đương nhiên.

Hồng tâm làm đất nước hưng thịnh trước là tử tế với dân, sau mới tuyển dùng nhân tài, những vị sen hồng. Tử tế là việc khó làm. Nếu bác ái và từ bi là nghĩ đến quyền lợi của người khác, thì tử tế là nghĩ đến giới hạn quyền lợi của bản thân. Hành xử tử tế là hành động trong giới hạn cho cả hai, mình và họ, đều có lợi.

Trong các vị lãnh đạo hiện nay, tôi tin rằng, nếu thế hệ này chưa có, tất nhiên sẽ có ở các thế hệ sau, những hồng tâm mang đến mùi hương thanh cao trong đầm sình lầy. Không lý nào nhiều lãnh đạo tài năng lại không có được một hồng tâm? Không lý nào nhiều lãnh đạo tài ba lại không có một lòng yêu nước tử tế? Không lý nào cả một đầm lớn lại không có vài mầm sen hồng?

Tôi cũng đã lớn tuổi để biết những suy nghĩ nào lý tưởng, những ước mơ nào trên mây. Chúng ta sẽ ngớ ngẩn khi hiểu rõ trong đáy bùn kia, tối thui tối mò, tìm đâu ra câu trả lời. Có quá nhiều câu hỏi, mà chưa có câu trả lời thỏa đáng, nói chi đến hành động. Tuy nhiên, chúng ta có mục đích. Giữ vững mục đích đó thì từ từ câu trả lời sẽ đến. Không có mục đích, dù có trăm câu trả lời hay, cũng vô ích.

Trong lúc chờ đợi, tôi biết rõ một điều có thật: khi sen nở tỏa hương thơm thì đồng thời bùn sình cũng nhả ra mùi tanh thúi. Thơm và thúi phải hòa nhập với nhau, bao lâu cho thơm lừng hơn thúi? Nếu thúi bớt phun ra, bớt tranh cãi, bớt gièm pha, bớt chửi bới, bớt chiến đấu, mà thông cảm và đồng cảm thì thơm có hy vọng lừng lẫy với tốc độ nhanh chóng. Vì vậy, yêu nước là khi sen cười, xin bùn bụm miệng.

Ngu Yên

Ghi:
: “… Ta chỉ yêu một mình hoa sen mọc lên từ chốn bùn lầy nước đọng, nhưng không hề bị nhiễm dơ bẩn, gội sóng nước trong mà chẳng hề tỏ đẹp lả lơi, bên trong thông suốt, bên ngoài ngay thẳng, không cành không nhánh, mùi hương tỏa xa càng thêm thơm, đứng dong dỏng thanh khiết. Chỉ có thể đứng xa mà nhìn, không thể bỡn cợt hoa…” và ông ví sen là loài hoa quân tử. (… dư độc ái liên chi xuất ứ nê nhi bất nhiễm, trạc thanh liên nhi bất yêu, trung thông ngoại trực, bất mạn bất chi, hương viễn ích thanh, đình đình tịnh thực, khả viễn quan nhi bất khả tiết ngoạn yên …) (Bản dịch trích của Thích nữ Thiện Tánh.)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thương nhớ. Cảm động. Ngậm Ngùi. Và ước mơ một ngày quê nhà sẽ có dân chủ, khi đó Sài Gòn sẽ được hồi phục tên cũ. Đêm nhạc Trần Chí Phúc với chủ đề Sài Gòn Một Thoáng 50 Năm vào chiều Thứ Bảy 19/4/2025 đã chạm rất ngọt ngào và cay đắng vào trái tim của những người con Sài Gòn.
“Năm nay mang một ý nghĩa đặc biệt sâu sắc, là cột mốc 50 năm kể từ ngày những người tị nạn Việt Nam đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ. Nửa thế kỷ kiên cường, dựng xây và tái định nghĩa thế nào là người Mỹ gốc Việt. Trong suốt hành trình đó, nghệ thuật kể chuyện đã đóng một vai trò thiết yếu—lưu giữ lịch sử, mở rộng tương lai, và thắt chặt cộng đồng. Chính vì thế, chúng tôi vô cùng tự hào được mang đến cho quý vị VietBook Fest năm nay—không chỉ một lễ hội sách, mà một không gian để kết nối, đối thoại và tôn vinh Bản Sắc Người Việt 50 Năm.”
Ngày Thứ Bảy 29 tháng 3 năm 2025 tại Citadel Art Gallery, một buổi Ra Mắt Thơ kèm thêm Triển Lãm đã được tổ chức rầm rộ và được sự hưởng ứng nồng nhiệt của khách thưởng ngoạn. Buổi hội ngộ văn học, nghệ thuật hy hữu này có sự góp mặt của nhiều tác giả với nhiều hình thái nghệ thuật như hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, văn, thơ, sách, và âm nhạc. Gần 200 quan khách hiện diện đã làm bầu không khí nghệ thuật bừng sáng.
Sự ra đi lặng lẽ của họa sĩ Nguyễn Đồng là một một dư vang trầm mặc trong ký ức nghệ thuật Miền Nam – một miền nghệ thuật từng sống động, tự do, nơi mà hội họa được đặt ngang hàng với văn học, triết học, và cả chính trị. Ông không những là một trong những họa sĩ tiêu biểu của thời Đệ Nhị Cộng Hòa, mà còn là nhân chứng của một nền văn hóa từng rực rỡ trước khi bị chôn vùi dưới lớp bụi chiến tranh và chính trị hóa nghệ thuật.
Buổi ra mắt tuyển tập "Nguyễn Thị Khánh Minh, Bằng hữu & Văn chương – Tạp chí Ngôn Ngữ ấn bản đặc biệt" cho thấy sự đóng góp, quý trọng của nhiều nhà văn, nhà thơ đối với nhà thơ nữ này. Độ dày sách này là 544 trang, dày gấp nhiều lần các thi tập trước kia của nhà thơ nữ này. Nơi đây cũng lưu giữ những ký họa, tranh bìa, thủ bút, thơ tặng, bình luận từ hơn 40 văn nghệ sĩ cho Nguyễn Thị Khánh Minh, trong đó có các tên tuổi lớn như Thầy Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Đinh Cường, Đinh Trường Chinh, Trịnh Cung, Trương Đình Uyên, Lê Thánh Thư, Đỗ Hồng Ngọc, và nhiều người khác.
Họa sĩ Hồ Thành Đức sinh năm 1940 tại Đà Nẵng, Quảng Nam. Ông tốt nghiệp Cao Đẳng Quốc Gia Mỹ Thuật Sài Gòn, sáng lập viên của Hội Họa sĩ Trẻ Việt Nam (1968-1975), Giáo sư hội họa Viện Đại Học Vạn Hạnh (1969-1975), Khoa trưởng ngành Họa Thực Tiễn tại Đại Học Phương Nam (1974-1975). Ông đã có rất nhiều cuộc triển lãm trong và ngoài nước. Tranh của ông cũng có mặt tại nhiều viện bảo tàng danh tiếng trên thế giới trong đó phải kể đến Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Smithsonian tại thủ đô Washington. Tranh của ông được đánh giá cao bởi nhiều cây bút phê bình hội họa trong và ngoài nước..
“Để có thể nối kết đồng cảm ý nghĩa và tình tự của một ca khúc với người nghe, người hát cần hiểu ca từ sâu sắc và rung động với tâm tình trong lời và nhạc.”
Một lần tôi bất chợt nghe Khánh Ly hát: Ta không thấy em từ bấy lâu nay, mùa mưa làm rừng đước dâng đầy/trên cao gió hát mây như tóc/tràm đứng như em một dáng gầy. Mỗi con lạch là mỗi xót xa, mỗi giòng sông là mỗi tuổi già, thành phố đâu đây khuất hình khuất dạng, cuộc chiến già nua theo mỗi tiếng ca…. (Thơ U Minh- Nguyễn Tiến Cung, Phạm Duy phổ nhạc.) Tiếnh hát của chị rời rạc, kể lể. Bài hát không có tiếng súng tiếng bom nào cả, nhưng qua cái giọng nhừa nhựa chẫm rãi của chị ta thấy như những trang sách viết về chiến tranh đang lật từng tờ và người lính đó đang bì bõm trong rừng đước U Minh. Anh không bao giờ còn gặp lại người yêu nữa. Anh tử trận hay người yêu đã bỏ đi xa? Kết thúc nào cũng buồn cả. Tôi nghe đi nghe lại nhiều lần đoạn hát giản dị này và lúc nào nghe cũng ứa nước mắt.
Lần đầu tiên tôi có cơ hội được một mình ngồi trò chuyện với cô Khánh Ly là một ngày của Tháng 3 cách đây tròn 15 năm – khi được sếp phân công phỏng vấn viết bài về sự có mặt của cô trong một đêm nhạc mang tên “Du Mục” của nhóm The Friends. Tôi vẫn nhớ như in lần đầu gặp gỡ đó – giữa Khánh Ly – người được xem như một trong những huyền thoại của làng âm nhạc Việt Nam, và tôi – một phóng viên mới bước vào nghiệp cầm bút chưa đầy 2 năm. Nơi cô hẹn tôi là quán phở Nguyễn Huệ của chú Cảnh ‘Vịt’ (chú Cảnh đã bỏ trần gian đi rong chơi ở chốn xa lắc xa lơ nào cũng đã vài năm). Hôm đó, chồng cô, nhà báo Nguyễn Hoàng Đoan, chở cô tới. Trong hơn một tiếng đồng hồ, tôi đã hỏi cô nhiều câu – phần lớn chả ăn nhập gì đến chương trình cô sắp tham gia – mà chỉ là những câu hỏi tôi tò mò muốn biết về Khánh Ly – một người được bao người ngưỡng mộ, bao người mơ ước được gặp mặt – lại đang ngồi đối diện tôi, cùng tôi uống cà phê trong quán phở, và làm tôi bị say thuốc lá
Người đàn bà ấy, đứng trên sân khấu với mái tóc buông dài, đôi chân trần và một ánh mắt không có gì ngoài sự thản nhiên. Người ta gọi bà là "nữ hoàng chân đất," nhưng bà không phải là hoàng hậu của bất cứ điều gì ngoài nỗi buồn nhân thế. Đó là sự thản nhiên của một người đã thấy hết những gì cuộc đời có thể mang lại: những đỉnh cao, những vực sâu, những ngày tháng của ánh hào quang và những đêm dài của sự cô đơn tuyệt đối. Nếu có một người nào hát về sự mất mát mà không làm cho nó trở nên ủy mị, nếu có một người nào hát về những điều tan vỡ mà không cần phải gào thét lên, thì đó là Khánh Ly.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.