– Chị Nở mới ghé tiệm mua thuốc, rồi mời tụi mình tuần tới đến dự tiệc kỷ niệm 40 năm ngày cưới của vợ chồng chị ấy.
Tôi giãy nảy:
– Mình từ chối được không anh?
– Sao vậy em, mình có bận gì đâu ?
– Anh mau quên thật, còn em thì nhớ mãi lần dự tiệc mấy năm trước…
– Tưởng chuyện gì! Anh nhớ rồi, thì lần này em phải biết …rút kinh nghiệm chứ! Mình không đi thì hơi kỳ, dù sao đây cũng là tiệc mừng hạnh phúc nhà người ta, vả lại đúng dịp cuối năm tụ tập người quen, cũng vui!
Chị Nở là người chị lớn tuổi khá thân thiết với gia đình tôi. Chị là trưởng Hội Con Gái Đức Mẹ trong Nhà Thờ, là thành viên Ca Đoàn chúng tôi, còn tôi là Thư Ký của Hội Đồng Mục Vụ, nên quen biết nhau qua công việc giáo xứ và tình Kito hữu, tình ca viên ca đoàn. Ngoài ra, chị ấy còn là khách hàng quen thuộc của tiệm thuốc của chồng tôi, nên năm đó khi chị xây nhà mới (lúc dịch Covid chưa xuất hiện), chị có mời vợ chồng tôi đến chung vui.
Tôi hớn hở đi shopping từ buổi sáng để chọn quà tân gia cho nhà chị Nở, cũng là dịp tháng Muời Hai nên tôi kết hợp đi tìm mua quà trong “Christmas gift list” của gia đình. Mỗi lần đi mua quà cho ai đó, kể cả quà Giáng Sinh, tôi thường bị tẩu hoả nhập ma, có khi đi cả buổi chẳng mua được gì. Chọn quà tân gia càng khó hơn, tôi đi hết tiệm này qua tiệm khác, suy nghĩ về “gia chủ” để đoán xem họ thích quà loại nào, cuối cùng tôi cũng phải chọn một món khi trời đã quá trưa.
Chồng tôi phụ xách đồ vào nhà:
– Sao em về trễ vậy, sắp đến giờ đi dự tiệc rồi, mà em đã ăn gì chưa ?
Tôi vui vẻ:
– Em có ăn chút French Fries và ly cà phê tại khu shopping, anh mang quà ra gói giùm em, rồi chờ em lên tắm rửa thay quần áo. Em cố ý để bụng đói đi dự tiệc đấy, chị Nở nổi tiếng nấu ăn ngon mà!
Mọi việc xong xuôi, tôi ngồi vào bàn trang điểm, nhẩn nha chọn loại nước hoa yêu thích. Đi dự tiệc vào những dịp cuối năm như thế này làm tôi phấn chấn, vì được mặc quần áo đẹp, gặp gỡ người quen và thưởng thức các món ăn.
– Xong chưa em ơi?!
Tôi nhìn đồng hồ:
– Chỉ mới hơn bốn rưỡi mà anh, họ mời 5 giờ, trời mùa đông mau tối!
– Anh biết chứ! Nhưng em đã từng ngán ngẩm cảnh đi tiệc cưới phải chờ một vài tiếng mới được ăn, và em cũng lên án “không ăn đậu không phải Mễ, không đi trễ không phải Việt Nam” đấy thôi!
– Đúng thế! Em là chúa ghét chuyện đi …quá trễ. Nếu hôm nay mình đến đúng “y boong” 5 giờ như người Canada thì sợ mang tiếng …ham ăn. Thôi tụi mình sẽ chọn giờ …lửng lơ, đến đó khoảng 5 giờ 15, không sớm mà cũng không muộn, coi như phe đến sớm và phe đến trễ đều không có cớ nói xấu mình.
Đến nơi đúng 5 giờ 15, chúng tôi bước vào căn phòng ăn rộng rãi, chỉ thấy Cha xứ, mấy Cha khách và một hai cặp vợ chồng khác đang nói chuyện (hoá ra tôi vẫn đến sớm!). Mùi thức ăn từ nhà bếp toả ra thơm nồng, kích thích cơn đói của tôi. Chồng tôi được một vị khách mời ngồi vào bàn với chia bia, tôi cũng tính kéo ghế ngồi xuống thì chị Nở réo tôi từ trong bếp:
– Loan ơi, vào đây nếm thử món bánh tôm Tây Hồ của chị nà!!
Tôi mừng rỡ chạy vào bếp, bụng đang cồn cào mà có bánh tôm chiên ngon tuyệt vời thì còn gì bằng. Món này của chị Nở nổi tiếng khắp giáo xứ, tôm loại ngon, để nguyên vỏ, còn đủ đầu đuôi sau khi cắt sạch sẽ và nêm nếm, nhúng vào thau bột có sẵn những miếng khoai lang cắt sợi to, rồi chiên trên chảo dầu nóng, ăn với rau sống và nước mắm chua ngọt. Tôi đón lấy miếng bánh mới chiên còn nóng hổi, ăn thử thôi, vì chưa có nước mắm và rau. Lúc bấy giờ tôi mới có dịp nhìn quanh bếp, đồ đạc các thứ còn bày bừa ngổn ngang. Một chị đứng nơi góc Pantry thấy tôi rảnh, liền ngoắc tôi:
– Em qua đây giúp chị lặt rau nhe, để chị ra xem nồi súp Cua!
Tôi xắn tay áo lên, bắt đầu lặt rau. Lúc này có người lai rai đến, cười nói chào hỏi bắt tay nhau rôm rả ngoài kia. Tôi để rổ rau đã lặt xong, tính chạy qua phòng ăn để góp vui với đám đông thì chị Nở lại bảo:
– Ôi, em tiện tay rửa rau giùm chị luôn thể, nhé!
Căn phòng bếp rất rộng rãi, ngoài hai cái sinks kế bên dàn bếp gas, còn một cái sink lớn ngay giữa kitchen island Tôi đứng rửa rau, có ai đó mang vào bếp mấy túi trái cây, nào thơm, nào kiwi, thanh long, hồng giòn, rồi bày ra giữa nhà bếp, kẻ cắt người gọt nhộn nhịp.
Tôi nhìn ra ngoài kia, mong chồng tôi vào đây ...cứu tôi, nhưng hình như anh ấy chẳng nhớ có tôi ở đây thì phải. Anh còn bận rộn cụng ly với người này người kia, ăn mấy món snacks khai vị. Tôi đang tìm cách âm thầm chuồn ra ngoài thì cái chị súp Cua hồi nãy nhìn tôi mỉm cười:
– Em ơi, cái chảo bánh tôm đang rảnh, em ra chiên hộ chị hai bịch bánh phồng tôm này để chút ăn gỏi xoài …
Trời ơi! Chị Nở đang chạy ra ngoài kia chào khách mới đến, toàn là những vị khách “có máu mặt” trong giáo xứ nên căn nhà bếp để cho chúng tôi tự sai bảo nhau, mà tôi là một trong những nạn nhân.
Giờ thì tôi không còn cười được nữa. Tôi diện quần áo đẹp, làm tóc đẹp, sơn móng tay móng chân để đi dự tiệc, để được thảnh thơi ăn uống chuyện trò, chớ đầu phải để làm phụ bếp. Tôi vẫn quan niệm rằng, khi mình mời khách đến nhà, thì mọi việc nấu nướng phải chu toàn trước giờ khách đến, ngoại trừ những món cần các công đoạn cuối cùng cho nóng sốt. Tôi không bao giờ để khách đến với căn bếp bừa bộn vì sự thiếu chuẩn bị của gia chủ. Nếu cần, tôi sẽ nhờ một vài người rất thân quen đến từ sớm để phụ, kể cả các món tráng miệng, trái cây tôi cũng cắt sẵn sàng trong tủ lạnh, tới giờ khách đến là cả chủ lẫn khách đều thoải mái, nên tôi khó chấp nhận việc đi dự tiệc mà bất ngờ trở thành phụ bếp, ngoại trừ trường hợp khẩn cấp trong các buổi ma chay, hoặc những sự cố bất ngờ khác.
Tôi cứ như chong chóng trong nhà bếp, từ những việc có tên đến những việc không tên, thì đến giờ tiệc bắt đầu. Lạy Chúa ôi, bàn ăn ngoài kia đã đầy người, lũ trẻ con và đám thanh niên được vào phòng ăn phụ, còn một số phụ nữ phụ bếp chúng tôi cũng gần chục người phải đứng ngay trong bếp, giỏng tai nghe gia chủ tuyên bố lý do, rồi Cha xứ làm phép thức ăn, xong là chúng tôi xếp hàng lần lượt bưng bê các món ra cả hai phòng ăn phục vụ mọi người. Chị Nở tíu tít chỉ đạo nhóm phụ bếp lo cho khách khứa đầy đủ, rồi quay vào rạng rỡ nói với chúng tôi:
– Chị em chúng mình chịu khó ăn trong bếp nhe! Số sướng mới được ăn trong đây, vừa ăn vừa đứng nó mới mau tiêu, ăn được nhiều, phải không nà!?
Rồi chị cười thích thú, tôi bấm bụng cười theo (méo cả miệng) đáp lễ. Thời đại nào rồi mà còn cái hủ tục ưu tiên cho các đấng đàn ông ăn trên ngồi trước và phụ nữ chúng tôi phải ăn dưới bếp? Mà nào có được yên thân, ăn mỗi món một ít, có món thì nguyên vẹn, có món thì chỉ có đầu thừa đuôi thẹo, đã vậy còn bị réo gọi liên tục, mang thêm chén đũa, lấy tí nước mắm, múc thêm món này món kia, ôi thôi đủ cả! Tôi thấy ghen tị với các chị đến trễ ngoài kia, được ngồi bên cạnh chồng, vừa ăn uống vừa nói chuyện vô cùng vô tư lự, rộn ràng, còn tôi, cũng là khách được mời, nhưng còn kiêm luôn cả chân phụ bếp, dọn rác và bồi bàn.
Tiệc cũng sắp tàn, vài người kéo ra phòng kế bên hát karaoke, nhóm đàn ông tản ra ngoài hút thuốc, tôi nhìn mấy cái sinks trong bếp đầy các chén dĩa dơ mà ngán ngẩm. Tôi quyết định đứng lên, chuẩn bị khuôn mặt lạnh lùng, nhủ thầm sẽ không mủi lòng nhẹ dạ với bất cứ người nào mời tôi ...ở lại nhà bếp. May quá, chị Nở từ ngoài nhanh nhẹn chạy vào, xua tay:
– Ấy ấy! Em ơi, đừng bận tâm chuyện rửa chén, chút chị cho vào máy một loáng là xong thôi mà!
Ủa, tôi có định rửa chén đâu chớ! (Xưa rồi …Nở!). Cuối cùng, chồng tôi cũng kịp xuất hiện để … giải cứu tôi, chào chủ nhà và xin phép ra về vì mai còn đi làm sớm, dù chị Nở một mực níu kéo ở lại hát karaoke với lý do “hổng có em thì karaoke hổng dzui” (chắc chị ấy mỉa mai tôi, chớ ai cũng biết tôi thuộc nhóm người “hát hay không bằng …khoái hát”), nhưng tôi vừa bực bội vừa mệt mỏi, thì còn tâm trí nào để hát xướng ?! Có cho tôi hát mười bài tôi cũng chẳng ham.
Chui vào xe, thấy tôi im lặng bơ phờ, chồng nhìn tôi …rụt rè:
– Em đói không, mình ghé tiệm nào đó ăn thêm nhe?!
– Anh cũng đói à ?
– Không, anh quá no vì thức ăn mang lên bàn liên tục, anh nghĩ em ở dưới bếp bận rộn chắc không ăn đủ no…
Tôi hờn mát:
– Anh no rồi thì đi ăn nữa làm gì!
– Thì cho em ăn!
– Thú thật với anh, em đói không ra đói, no chẳng ra no, mà chỉ thấy mệt. Anh cho em về nhà tắm rửa, cái áo đầm hàng hiệu của em bây giờ đầy mùi hành tỏi xào nấu. Nếu tối đói bụng em nấu mì, vừa ăn vừa xem phim vẫn ngon tuyệt vời.
– Vậy lần này nhất định vợ chồng mình sẽ đến trễ hẳn một tiếng.
– Ai lại làm thế? Như vậy không lịch sự tí nào cả!
– Mình sẽ nói trước là tiệm đang mùa chích Flu và booster shot cho Covid nên không đến đúng giờ được, ai dám trách mình?!
Vài ngày sau chồng tôi về nhà, lại báo …tin vui:
– Em ơi, khỏi cần lo chuyện đi trễ nữa nhé.
– Chị Nở cancel tiệc hở anh?
– Chị ấy bảo mấy năm nay vì ảnh hưởng dịch chưa được ăn nhà hàng, nên chị quyết định tiệc sẽ làm ở nhà hàng, khỏi phải lỉnh kỉnh bếp núc. Vậy em tha hồ mặc áo quần đẹp rồi đến dự tiệc. À mà nè, chị Nở còn đặt nhà hàng lo chuyện âm thanh và dàn karaoke nữa đó, em chuẩn bị dợt lại mấy bài nhạc tủ, nhạc sến của em đi là vừa.
Đúng là tin vui tới tấp, nên tôi chẳng thèm cãi lại lời chồng, rằng tôi cũng yêu thích mê mẩn “nhạc sang” của Phạm Duy, Ngô Thuỵ Miên, Trần Công Phụng, Cung Tiến… nhưng vì giọng “oanh vàng” của tôi chỉ hợp với nhạc bolero thôi chứ bộ! Dù rằng, đôi khi tôi cũng thấy mình cũng rất… sến, chả oan gì đâu!
Mà thôi, trước mắt là tôi sẽ đi shopping cho bộ áo đầm mới, chuyện hát hò tính sau!
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi.
Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó.
Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà.
Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai.
Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.
*** Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện,
Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.
Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.
Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.
Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.
Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.
Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.
Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.
Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.
Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.
Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.
Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.
Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.
Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.
Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.
Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.
Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.
Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu. Derek Trần
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.