Hôm nay,  

“Người đi qua đời tôi” – Thơ Trần Dạ Từ, Nhạc Phạm Đình Chương

09/12/202307:53:00(Xem: 2948)

Tản mạn về những bài thơ hay phổ nhạc

 

nghieu-de
Tranh Nghiêu Đề.


                                                                                                    (Tặng K.Ng.)


Cơn mưa bất chợt đến mang theo nỗi buồn vô cớ. Nỗi buồn chầm chậm len vào tim vào phổi rồi thoát ra thành hơi thở nóng hòa nhịp tiếng mưa rơi. Tiếng hát Thái Thanh vút lên, dội lại những hình bóng nhập nhòa kỷ niệm. Những hình bóng cũ, những hò hẹn xưa. Ngày mưa tháng nắng theo nhau qua những hàng cây xanh lá mới đến khi lá buồn bã lìa cành. Yêu nhau, xa nhau một ngày tưởng chừng năm dài hiu hắt, vắng nhau một buổi ngỡ đã suốt mùa đếm lá vàng rơi... Có bao giờ nghĩ sẽ xa nhau, thế mà xa nhau thật. Ai đã từng yêu, từng mơ mộng về một tình yêu thánh hóa, nhưng khi cuộc tình qua đi, người tình bỏ đi, để ta lơ ngơ giữa trần gian buồn bã này với bàn tay mềm khói sương. Cơn mưa chợt về khi lòng anh hiu hắt mang hình ảnh một mùa đông sầu của quá khứ.
    “ Người đi qua đời tôi / Trong những chiều đông sầu / Mưa mù lên mấy vai / Gió mù lên mấy trời…”
    Chiều đông sầu. Mưa mù. Gió lộng. Nằm co ro nghe từng giọt mưa buồn bã giăng kín không gian. Mưa trỗi nhạc sầu như nhịp chân xa hút của người tình đã bỏ quên sau lưng kỷ niệm. Tiếng hát Thái Thanh ngân dài lời tình buồn của Trần Dạ Từ trong âm điệu cuốn hút hồn người lên chót vót “ sầu âm đô thứ ” của Phạm Đình Chương. Bài hát như tiếng thở dài của gió đông não ruột. Một nuối tiếc khôn nguôi, hờn trách, kể lể. Người đi qua đời tôi, trong những chiều đông sầu. Tiếng dội tê buốt còn vọng lại ngập hồn. Và đất trời cũng đồng lõa mang gió mưa về vây bủa. Mưa mù lên mấy vai. Gió mù lên mấy trời. Đi qua và không ngoái nhìn lại. Hình bóng người nhòe nhoẹt trong mưa mù lên mấy vai. Tôi còn lại gì ngoài nỗi lòng rét mướt?
    “Người đi qua đời tôi / Hồn lưng miền rét mướt / Đường bay đầy lá mùa / Vàng xưa đầy dấu chân / Lòng vắng như ngày tháng…”
    Chiều đông sầu nằm nghe mưa hòa lẫn tiếng hát. Tiếng hát đem kỷ niệm về trải khắp không gian. Ai không qua thời tuổi trẻ coi đời như bóng mây. Đó là tuổi của những cơn điên dại đầu đời, những thành phố xa lạ, những tháng ngày không tên, những dừng chân không hẹn trước.
    Chiều đông sầu hay thu vàng dấu chân vẫn là hình ảnh của quá khứ, của kỷ niệm. Không gian êm đềm của thu vàng dấu chân hò hẹn và thời gian rét buốt của đông sầu chia cách. Cuộc tình đẹp là cuộc tình chia xa, có phải? Và bây giờ tiếng hát như sợi khói muộn phiền bay tản mạn trong hồn chết lịm: Ôi những melodies đau đớn!
    “ Người đi qua đời tôi / Chiều ầm vang tiếng sóng / Bàn tay mềm khói sương / Tiếng hát nào hơ nóng…”
    Bàn tay mềm khói sương. Tiếng hát phi thời gian kia cũng làm mềm tim người nghe như sương khói. Lời ca đẩy ta rơi hẫng, lửng lơ giữa một vùng khói sương rét mướt. Tiếng hát nào hơ nóng. Hơ nóng một cuộc tình đã xa như dĩ vãng nhưng gần gũi như hơi-thở-khói-sương. Một bức tranh mờ ảo dưới làn sương chiều. Dấu chân người đọng lại tiếng dội thảng thốt buốt nhức bất ngờ.
    “Vàng xưa đầy dấu chân / Đen lối vùng lãng quên…”


    Tình yêu trở thành cái bóng chập chờn bao quanh người đứng nhìn lại kỷ niệm. Thơ Trần Dạ Từ đã là một tiếng thở dài bi thiết. Nhạc sầu của Phạm Đình Chương đẩy tiếng vọng đó vượt lên thành tiếng xoáy lốc giữa chín tầng cao ngất mây đùn gió tạt. Và linh hồn dài tiếng ru của phi lao, của đường về nghĩa trang buồn thảm, của mộ phần tối đen.
    “Người đi qua đời tôi / Nghe những lời linh hồn / Phi lao dài tiếng ru / Êm ái lòng hối tiếc / Trên lối về nghĩa trang / Trên mộ phần tối đen...”
    Còn lại gì? Câu hỏi chợt đánh thức người tình ở lại như tiếng sấm vang dội đất trời giữa một đêm đông mù mịt. Đó có phải là tiếng gọi từ cõi ngoài nào xa lắc. Chạy vòng về quá khứ tôi bắt gặp tôi năm mười chín tuổi, ngày lủi thủi đi về căn phòng quạnh quẽ bên những ngôi mộ cổ hoang phế. Những chiều mưa, nước ngập quá gối, bì bõm trở về nghe như có tiếng thở dài trong mưa gió vọng từ những ngôi mộ kia (mà tôi vẫn nghĩ, một cách lãng mạn, là họ bỏ đi để đến cái cõi nào đó từ nguyên nhân những cuộc tình đổ vỡ.) “ Nghe những lời linh hồn… Trên mộ phần tối đen”. Đó có phải là nỗi chết êm đềm? Chết là một biểu tượng thiết tha của rời bỏ, chia lìa tự một thân yêu. “Êm ái lòng hối tiếc”. Thơ Trần Dạ Từ của “ Thuở làm thơ yêu em ” nói chung và bài “Thơ cũ của nàng” (tức Người đi qua đời tôi) nói riêng, đã là một nhắc nhở êm ái cái thuở ban đầu mật ngọt; thuở biết buồn khi nghe một nốt nhạc trầm, khi đọc một câu thơ ướt…Và với nhạc Phạm Đình Chương âm thanh bật lên rướm máu. Ôi trái tim tưởng đã khô khi lá chết nhưng thật ra vẫn âm ỉ nhựa sống của sương đêm và trăng lạnh.
    Người tình đã quay mặt, anh còn hỏi có nhớ gì không. Ôi hàng muôn ngàn cuộc tình đổ vỡ vẫn mang dáng dấp và âm điệu ấy nhưng là những lập lại mới mẻ. Rất mới. “Người đi qua đời tôi / Không nhớ gì sao người?” Hỏi, với một hờn lẫy. Hờn lẫy của tuyệt vọng, của bám víu vào hư không. Không cần - hay biết chắc không được trả lời. Vì còn đâu nữa, nụ cười, tiếng nói, dáng hình vừa thoáng qua mất hút vào sương khói phũ phàng. Biết, nhưng vẫn cứ muốn nhắc lời một lời vô vọng, cũ càng. Đường xưa đầy lá úa, vàng xưa đầy dấu chân. Đó là thảng thốt cuối cùng. Để rồi sau đó im lặng. Tiếng gọi thảng thốt cuối cùng bao giờ cũng chân thành muốn khóc, hờn giận vu vơ hay tràn đầy bao nhiêu cũng bay đi. Còn lại thiết tha cuối cùng và đầu tiên.
    Tiếng hát mở ra một cánh đồng bát ngát kỷ niệm, những hạnh phúc và đớn đau đầu đời, những chân trời mộng mơ dựng nên một thuở.
    Tiếng hát cũng bủa xuống những đám sương mù che khuất dáng người tình và khép lại bằng nghẹn ngào ập tới. Đời sống thở bằng hương thơm của mưa bụi và hương lá úa ngầy ngật êm ả. “Em đi qua đời anh / Không nhớ gì sao em?” Nhớ… Nhớ… Nhớ… Tiếng hát mang “ nỗi sầu mineure” đau buốt trái tim tôi. Chỉ một mélody này, Phạm Đình Chương đã đẩy thơ Trần Dạ Từ lên tới tuyệt đỉnh rung cảm người thưởng ngoạn và cũng chỉ hai câu thơ cuối bài “Người đi qua đời tôi” đã đủ khiến những trái tim tưởng khô héo vụt hồi sinh như những giọt mưa đầu mùa đã làm những hàng cây héo khô nẩy mầm xanh lá mới. Nửa thế kỷ trước, tiếng hát Thái Thanh đã mở ra một chân trời tím như tựa cuốn phim bà hát lồng tiếng cho nữ tài tử Kim Vui đóng vai nữ ca sĩ xa cách người yêu lính chiến.
    Và hôm nay nghe lại ca khúc “Người đi qua đời tôi” thơ Trần Dạ Từ - Phạm Đình Chương phổ nhạc với giọng hát “phi thời gian” của người nữ ca sĩ quá cố nhưng tiếng hát còn sống mãi, vẫn rung động kỳ diệu, buốt nhức khi giọng cao vút uốn cong âm nhớ trong câu hát “không nhớ gì sao em?”

– Phạm Chu Sa

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.