Hôm nay,  

Bạn lòng

09/12/202307:26:00(Xem: 3154)
Truyện

Trong giấc mơ tôi-Đặng Mậu Tựu

Trong giấc mơ tôi – Tranh Đặng Mậu Tựu.



Bạn lòng thân mến
Đây giây phút hồn tôi
Nghe chan chứa hương đời...

(Hoàng Trọng)

 

Bố Nisha người Ấn, mẹ Nisha người Việt, người bắc Hà Nội. Nisha là một cô bé thật xinh với giọng nói dễ thương, có chút màu sắc Quảng Ngãi. Chị của Nisha kể một giai thoại vui. Nisha vào Sài Gòn, ở nhà bên ngoại, buổi sáng, các bác gọi Nisha xuống điểm tâm. Từ trên lầu Nisha trả lời:
    – Dạ, con rửa cái “mẹt” xong, con xuống liền.
    Các bác thắc mắc, con nhỏ này, mới sáng sớm, sao làm siêng rửa mẹt, rửa thúng. Mà rổ rá để cả dưới bếp, chứ đâu có ở trên lầu. Chị của Nisha phải thông dịch:
    – Thưa, em con đang rửa mặt. 
     Tôi uống nước sông Hương chỉ mấy ngày, sống suốt thời thơ ấu ở non nước xứ Quảng, mà giọng nói đầy đủ “sáu vài mười hai nhịp”. Chúng tôi cùng vào trường Nữ Trung Học. Ngôi trường hiền hòa, không mang tên của một danh nhân nào, đơn giản là trường trung học dành cho con gái, vậy thôi! Như một cô gái quê tên Lúa hay Thóc, mà chất chứa bao kỷ niệm. Vào lớp sáu, Nisha đã được diện áo dài, để tóc xõa ngang vai. Tôi thầm ganh tị với Nisha và biết bao bạn bè khác trong lớp, khi tôi phải mặc áo đầm với tóc bum bê cho đến giữa năm lớp tám. Trong lớp tôi cũng thân với Diệu, vì đồng bệnh (mặc áo đầm) tương lân. Một lần, cùng các bạn đi tập múa ở Thạch Bích, Diệu đi trước, trẻ con trong xóm bỗng la lên:
    – Một cô giáo không mặc quần.
    Khi tôi xuất hiện, chúng lại cười ré:
    – Thêm một cô giáo không mặc quần.
    Diệu và tôi chỉ mong đất nẻ ra, hai đứa chui tọt thật nhanh xuống đó. Thuở ấy, Nisha đã mặc quần “xì líp gân”, vô cùng tân thời. Đám lóc chóc áo đầm chúng tôi chỉ biết quần “banh xô lây”, quê mùa quá sức. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ những cái bain soleil nền vải trắng, có hoa li ti màu tím hoặc hồng nhạt, lồng phồng dưới áo đầm dài quá gối.
    Nisha có cặp mắt rất đẹp, rất tình. Có lẽ, mắt của Nisha trội quá, nên ở trung học nơi tỉnh lỵ bé tí này, chẳng ai thèm đoái hoài đến đôi cửa sổ linh hồn của tôi. Phải đợi lúc tôi vào trung học Marie Curie và lên đại học ở Sài Gòn, tôi mới được nghe đến mắt nai, mắt nàng thơ. Có cô bạn còn “cường điệu”, bầu cặp mắt đẹp nhất trường Đại Học Sư Phạm.
    Nisha học giỏi nhiều môn, tôi cũng vậy. Điều khác biệt là Nisha rất giỏi môn thêu thùa, còn tôi, gần như đội sổ. Nhìn lại học bạ của mình, từ Toán Lý Hóa, cho đến Việt Văn, Anh Văn... môn nào cũng được khen “giỏi”. Nhưng môn nữ công “được” phê “kém”. Khi làm khăn gởi tặng chiến sĩ, Nisha chăm chút với cả tâm tình. Trên vuông vải tê-tô-rôn, với đường vắt đều đặn, một góc có thêu đôi chim non chụm đầu vào nhau. Tôi cũng cố gắng hết sức mình.   Nhưng xem ra trời không đãi kẻ có lòng, mà vụng tay như tôi. Tội nghiệp anh chiến sĩ nào nhận phải món quà hậu phương của tôi. Anh ngẩn người, không hiểu tại sao em gái gửi cho anh một miếng vải cong cong trông như cái lưới bắt cá, một bên góc có thêu hình gì trông giống như cái bánh xèo, có màu vàng của bột gạo pha màu nghệ, màu đỏ của tôm và ớt, màu xanh của rau thơm, rau quế. Ồ, mà không! Anh nhìn kỹ lại, hình như em gái hậu phương thêu một đóa hoa, với cánh đỏ, nhụy vàng, lá xanh.                                       
    Năm lớp tám, sự xuất hiện của thầy giáo Việt Văn, người Huế, gây biết bao xôn xao trong trường. Tôi bỗng có chút hãnh diện là đồng hương của thầy, khi nghe nhiều người trầm trồ về thầy. Đồng thời tôi đau khổ, vì bộ vó nhi đồng của mình. Tôi thích Việt Văn, học khá trong những năm trước. Nhưng trong đệ nhất lục cá nguyệt của lớp tám, tôi vẫn xoàng xoàng. Sang đến đệ nhị lục cá nguyệt, tôi bỗng trội hẳn, đứng hạng nhì trong lớp. Tôi tràn trề niềm vui, ngắm mãi con số 16 tròn trịa và nét chữ bay bướm của thầy, “Khá lắm, đáng khen”. Thời gian đó, tôi bắt đầu được mặc áo dài và tóc dần dần che được tai. Nisha rất nghịch, biểu diễn nhiều màn ngoạn mục trong giờ ra chơi lẫn giờ học. Nào là màn cột áo dài, giật nút áo, giấu giày dép. Mục ăn vụng trong lớp, ôi thôi, muôn màu, muôn vẻ. Những món ăn bình thường có cốc, ổi, cơm sấy. Những món khác thường có đường cặn, kẹo bùn, huê mít chấm mắm ruốc. Nhiều trò bị thầy “kêu án” vì tội “hình sự” trong lớp. Tôi chưa bị lần nào cả. Không phải tại tôi người đồng hương của thầy, mà bởi tôi ngoan quá, hay đúng hơn nhát quá.
    Lên lớp chín, chúng tôi ngồi cạnh nhau. Bây giờ, tôi được phép xem mình là thiếu nữ, ngang hàng với Nisha. Áo dài vải ca-tê sọc của tôi chẳng tha thướt cho bằng áo lụa của các bạn bè khác. Mạ tôi nói rồi, áo lụa chỉ dành cho người lớn. Chứ cho con nít bất tiện lắm, dễ nhăn, mau rách. Tôi chỉ biết ao ước, chứ không dám nói với Mạ, con đâu là con nít nữa. Nisha và tôi quấn quít bên nhau, thân ơi là thân. Chúng tôi sưu tầm thơ, nắn nót chép cho nhau thơ Từ Kế Tường, Nguyễn Tất Nhiên, Cao Thoại Châu... Trong trường nữ, chúng tôi vẫn bồi hồi chép cho nhau những vần thơ:
    Em mang mùa thu vào lớp học/ Phấn trắng ngỡ ngàng trên tay anh.
    Chúng tôi thuộc thật dễ dàng các bài thơ Hãy Là Cơn Gió Thoảng, Bài Cho Nhỏ Ngày Thi, Mùa Thu Trở Lại Trường... Mà trệu trạo hoài những bài thơ trong giờ cổ văn.
    Thời gian này cuộc sống gia đình tôi có thay đổi. Ngoài nhà sách Kim Mai, Mạ tôi mở tiệm cà phê Uyên. Tôi chẳng hề mặn mà với vai trò cô hàng cà phê bất đắc dĩ. Những lúc phải ngồi quầy tính tiền, tôi u sầu, ủ dột. May, hai bà chị trắng da dài tóc của tôi đã... làm say mê bao gã thiếu niên đa tình… Chứ không, tiệm cà phê phải đóng cửa sớm, vì cái mặt hắc ám của tôi.  Tôi càng đau khổ hơn mỗi khi thấy thầy Tuấn vào quán. Thầy Tuấn, người Huế, vừa ra trường từ đại học Huế. Thầy dạy rất hay, nhưng tính tình rất khó, rất nghiêm. Thầy đặc biệt chú ý đến tôi. Có lần bài kiểm, thầy cho tôi nhiều điểm hơn Thu Thủy, đương kim vô địch toán của lớp, dù hai đứa có đáp số giống nhau. Thu Thủy đang định cầm bài lên hỏi, thầy phán: “Ai mà kiện cáo là tui cho zero.” Khi nhắc lại chuyện xưa, nhắc đến thầy Tuấn, tôi nghĩ bạn bè không để ý sự quan tâm của thầy, nhưng Nisha nói, tụi tao biết tỏng là thầy binh mày đó chứ...
    Mùa xuân 1975, Nisha tặng tôi bản nhạc Tôi Đi Tìm Lại Một Mùa Xuân của Đoàn Nguyên. Bản nhạc in khổ nhỏ, có hình một cô bé và một cậu bé mặc áo dài khăn đóng ngoài bìa, trông đáng yêu hết sức. Con nhà sách, không lẽ tôi lại đi tặng cho Nisha bản nhạc in sẵn, thì dở quá. Thế là tôi bỏ cả ngày tìm trong Tuổi Hoa những hình vẽ ưa ý, rồi “chép tranh”. Tôi gò từng chữ của bài Bến Xuân Xanh của Dương Thiệu Tước. Cuối cùng, chẳng hài lòng với “tác phẩm nghệ thuật” của mình, tôi giấu tiệt. Tết đó, tôi chả có quà cho Nisha. Đến tháng tư, trong loạn ly cuộc đổi đời, chúng tôi lạc nhau. Tôi đã viết bao nhiêu thư cho Nisha, dù không có địa chỉ. Gia đình chúng tôi ra Đà Nẵng, rồi trở về Quảng Ngãi. Tôi vào lớp 10 trường Trần Quốc Tuấn. Tôi nhớ ngôi trường con gái da diết. Tôi nhớ Nisha quá chừng. Xứ Quảng đã đẩy chúng tôi đi, dần dà, nhưng rất xa. Bây giờ, khi nghĩ đến nơi ấy, vẫn luôn là cảm giác lẫn lộn, vừa thương, vừa ghét... Nhà sách đã bị mất từ những ngày đầu của cuộc bể dâu. Tiệm cà phê Uyên là một hiện tượng của cái tỉnh bé tí tẹo, khắt khe này. Ba tôi đang qua nhiều trại cải tạo. Hai chị lớn đi học ở Sài Gòn. Anh tôi đi làm xa. Nhà không được phép giữ người giúp việc. Tôi trở thành phụ tá đắc lực cho Mạ tôi, lèo lái con thuyền gia đình giữa mùa biển động. Tiệm cà phê Uyên là nơi gặp gỡ gần phân nửa nam sinh Trần Quốc Tuấn. Khi đến trường, tôi vờ như chưa hề gặp họ bao giờ. Lúc nào tôi cũng võ trang cho mình một vẻ mặt khó thương, lạnh lùng. Hiếm họa, tôi tìm được trận cười với đám bạn gái như khi họa bài thơ: Đông Thiên Tam Hữu hoặc sửa bài Hịch Tướng Sĩ Văn. Ông thầy dạy Văn, tu xuất, la cho một trận, rằng: “Con gái chi mà vô duyên vô nợ”. Nghe thầy xướng xong, nguệch ngoạc trên mảnh giấy nhỏ chuyền cho mấy đứa bạn, tôi họa ngay: “Đàn ông chi mà vô vợ vô con”. Thật ra, chút máu tếu có chạy trong huyết quản của tôi. Nhưng thời gian này, cuộc sống gia đình chỉ thấy trầm, chứ không thăng. Tôi không dám rộn tiếng cười. Cuối cùng, chúng tôi phải ra khỏi ngôi nhà thân yêu ở đường Quang Trung. Quán cà phê, cũng là tổ ấm hạnh phúc của gia đình chúng tôi bị tịch thu. Thêm một tai ương giáng xuống đời sống gia đình chúng tôi đòn chí tử. Bạn bè không bỏ tôi, thường xuyên lui tới để nâng đỡ tinh thần tôi. Thầy Sơn, dạy Anh Văn cũng là giáo viên chủ nhiệm đến thăm. Trong niên học, thầy đã rất thương và bảo bọc tôi. Là giáo viên chủ nhiệm thầy phải dạy thêm môn chính trị. Vào giờ đó, tôi phản đối bằng cách lấy báo Tuổi Ngọc ra đọc lén dưới bàn. Thầy gần như năn nỉ:
    – Em làm như vậy sẽ rầy rà hết sức cho em. Thầy không thể bao che cho em được hoài.
    Bây giờ, nhớ lại, tôi thấy tính tình mình nhiều khi ngang ngược thật, gây khó khăn cho người khác. Lúc đó, có thể thầy bị rắc rối, thầy chỉ là một sinh viên trẻ mới ra trường, không thân, không thế. Có dịp, gặp lại thầy, tôi sẽ nói lời xin lỗi. Nhưng tính tôi vẫn cứ chướng. Lần gặp nhau vừa rồi, tụi tôi đã bước vào tuổi trung niên, chứ không còn tuổi trung học, Nisha đã mấy lần bỏ nhỏ:
    – Mày, sao cái tật ngang bướng không chịu bỏ, cho đời bớt rắc rối. Chắc tao phải đổi thành ngữ ngang như cua là ngang như mày. Bị vì con cua nó có ngang đâu bằng mày đâu.
    Trong cơn đau mất nhà, tôi không viết thư cho Nisha nữa, mà kéo Nisha vào nhật ký của tôi. Thời gian đó, có lẽ Nisha hay bị hắt hơi lắm, vì tôi cứ nhắc Nisha hoài, dù trong thầm lặng. Tôi vào Sài Gòn, làm học trò Marie Curie. Trong lớp hơn 40 học sinh, tôi là người duy nhất nói giọng Huế, là nữ sinh duy nhất mặc áo dài có thêm… lớp áo lót. Tôi trông có vẻ... hương đồng cỏ nội giữa đám học trò tây thật và tây... dỏm. Tôi cứ như vậy, không chịu “nhả phèn”, cho đến khi xong lớp 12. Tình cờ, chúng tôi tìm lại được nhau, vui mừng khôn xiết. Từ Phú Nhuận tôi cỡi ngựa sắt lên cư xá Minh Mạng tìm cố nhân. Lần đến thăm, Nisha đãi món canh cà chua khuôn đậu. Bao nhiêu năm mà bây giờ còn nhớ đó, Nisha ơi. Nisha rời Việt Nam lúc nào tôi chẳng biết. Những năm cuối của thập niên 70 là những đau buồn, chia ly. Sau này, tôi nghe, Nisha qua Ấn Độ vào 1979. Sau đó, qua Pháp, vất vả, gian truân lắm.
    Tôi còn ở Việt Nam vài năm. Những năm tháng ở Đại Học Sư Phạm là những ngày hoa mộng trong đời tôi, dù cuộc sống lúc đó vẫn tăm tối, nhọc nhằn. Hình ảnh Nisha trong tôi không còn sống động như ngày trước. Nisha lùi vào một ngăn kéo ký ức trong tôi, một trong những ngăn kéo thân thiết nhất. Tôi đến Đức đầu mùa xuân 1982 với trái tim ngút ngàn thương nhớ. Tôi thương Ba Mạ tôi vô cùng trời đất. Tôi không muốn sống xa Ba Mạ, không muốn rời Việt Nam. Nhưng lúc đó, theo đơn bảo lãnh của anh tôi cho 6 chị em, hoặc tất cả cùng đi, hoặc cùng ở lại. Tôi đi lại từ đầu. Đi học Đức ngữ. Trở lại trung học Đức. Lập gia đình. Lấy tú tài Đức. Vào đại học. Có con. Đại gia đình tôi đoàn tụ. Hạnh phúc tôi trọn vẹn. Tôi hăm hở gồng gánh. Quang gánh của tôi một bên là gia đình, một bên là chữ nghĩa. Hai tay tôi lại ráng xách thêm vài công việc vặt vãnh, từ chạy bàn đến thông dịch. Tôi bơi lội, nhiều lúc tưởng đuối sức, giữa dòng đời. Cuối cùng, xong đại học. Tập tễnh bước vào đời, khi các bạn bè đồng niên đã có hơn mười năm kinh nghiệm nghề nghiệp dằn túi. Biết mình đến sau, tôi bươn bả tiếp, để bù đắp thời gian mình bị hụt. Trong những tất bật của cuộc sống, tôi nhận được một mảnh giấy nhỏ, “Có phải là Ngọc Thúy của lớp chín bốn đó không? Nisha đây.” Thế là tôi được biết, Nisha lại nhanh chân hơn tôi. Nisha lập gia đình trước tôi. Con Nisha lớn hơn con tôi. Nisha có tới hai đứa con lận. Hai đứa tìm lại nhau, vui vô kể. Nhưng thư từ chỉ siêng năng một năm hai lá, vào Giáng Sinh và tết Nguyên Đán. Bao giờ Nisha cũng gởi cho tôi tấm thiệp rất Á châu. Đâu đó thoảng chút hương xưa, dù rất nhẹ.
    Tôi ngoan ngoãn gởi hình cho Nisha, giới thiệu tiểu gia đình của mình. Nisha thì giấu cứ như là mèo giấu... Chỉ cho biết quý danh của chàng công tử già và hai công tử non. Những cuộc điện đàm đã đem chúng tôi lại gần nhau như ngày xưa. Trong tôi có những thay đổi nhẹ nhàng. Tôi chú ý đến mình hơn, bỏ thì giờ cho mình nhiều hơn. Tôi nghỉ lớp học tiếng Quan Thoại, thôi khoá Jazz Dance. Túi đồ tập thể dục nhịp điệu, đi bơi vẫn còn để trong hãng. Tôi không còn theo dõi các chương trình văn hóa, văn nghệ của Trung Tâm Văn Hóa thành phố, của hí viện quốc gia... Tôi ơ thờ với những phim của Hollywood, dù trước kia tôi rất mê xi-nê. Tôi nằm, tay gối đầu, nghe nhạc Việt, lắng theo từng ý, từng lời. Tôi ngồi ngoài vườn, giữa những hoa lá tôi đã chăm chút, chỉ ngắm mây trắng, trời xanh. Vậy thôi. Tôi như cảm được những khoảnh khắc hạnh phúc quanh tôi. Lục lọi lại mấy thùng thư cũ, soi lại bóng mình của mấy thập niên qua. Một buổi tối, trong trí cứ lảng vảng mấy vần thơ:
    Chim vỗ cánh, nắng phai rồi đó/ Về đi thôi o nớ, chiều rồi...
    Đầu óc tôi miên man cho đến câu cuối:
    Nên mỗi chiều khi nắng sang sông,/ O bâng khuâng lòng tự hỏi lòng/ Mình nhớ ai mà buồn chi lạ?
    Nhưng hai câu trước đó là gì, nghĩ hoài không ra. Ngày xưa, không chép ra vì quá thương bài thơ và quá tin trí nhớ của mình. Gọi cho Nisha, tôi sôi nổi:
    – Mày nhất định phải nhớ bài thơ này, mày không được quên!
    – Mày đừng có lộn xộn, để từ từ rồi tao tìm.
    Đêm đó, Nisha lùng sục trong mớ dĩ vãng nhiệm mầu của mình. Chồng của Nisha chắc lấy làm lạ, thấy vợ mình sau khi nhận một cú điện thoại của con bạn cà tửng, hình như cũng hơi cà tàng một tí. Hai ngày sau, tôi nhận được bài Qua Mấy Ngõ Hoa, Nisha chép tay gởi qua. Bạn ta, cám ơn mi nhiều. Dần dà, nhu cầu nói chuyện với Nisha càng ngày càng lớn. Chúng tôi ôm điện thoại lẩn thẩn hỏi nhau, sao chưa kịp mê tam cúc, xuân hồng đã trôi mau.
    Nisha hứa sẽ dạy tôi chơi tam cúc khi hai đứa có dịp gặp nhau. Chúng tôi nhắc đến ông anh họ của cô bạn cùng lớp, với đôi mắt đẹp nhìn vào muốn khóc, rồi hai đứa cười hăng hắc. Chồng Nisha nóng ruột đi lui đi tới, ra dấu cho vợ ngưng đấu hót, sợ tôi lủng túi vì điện thoại. Qua thư từ, điện thoại, ban công bé tí của tôi là một vườn thượng uyển với muôn vàn kỳ hoa, dị thảo. Khi nói về cây cỏ hình như tôi hơi mắc bệnh... hoang tưởng. Khi Nisha báo tin đến thăm tôi vào đầu mùa thu, tôi quýnh quíu, sợ có gì trục trặc phút cuối.
    Tôi giới thiệu cây cỏ trong vườn cho Nisha:
    – Đây là trúc đào, chiều xưa có ngọn trúc đào.
    – Biết rồi, tao hổng dốt lắm đâu.
    – Mấy bồn hoa thạch thảo tao mới thay cho thu hải đường và dã yên thảo. Đây là dạ điệp. Hoàng y dạ vũ sẽ ra hoa trong vài ngày tới.
    – Ở đâu mà mày tìm ra mấy cái tên nghe kêu cồm cộp vậy. Mày có chắc hoa này là thạch thảo không?
    – Không chắc lắm, nhưng tao tin rằng hoa xứng đáng với tên này.     – Tôi lúng túng
    – Còn dạ điệp? và hoa lan gì gì đó?
    – Ừ, ở Việt Nam người ta gọi là hoa bướm đêm. Trời, trời, mày biết không, khi có gió nhẹ, những bông hoa tí ti khẽ lung lay theo gió bên mấy con bướm tím thẫm, dễ thương hết biết. Còn hoa lan này khi nở, trông như một mỹ nhân tha thướt trong áo vàng đang khiêu vũ.
    – Mắc gì phải dạ vũ.     –  Nisha vặn vẹo.
    – Thì khiêu vũ khi màn đêm xuống mới tình tứ chứ.
    – Ôi, mày! Sao màu mè hoa lá hẹ quá!
    – Còn đây là hoa tím xưa. Hoa này do tao đặt tên, trong tự điển chưa có.     –  Tôi hớn hở kể và ca liền một câu: thầm mơ giàn hoa tím xưa chưa phai...
    – Úi chao, Tuấn Ngọc hát bài này hay thấu trời xanh lơ.
    Uả! Nisha ơi, tụi mình, bao năm hai phương trời cách biệt mà vẫn... mê chung một bóng hình.
    – Mấy hoa thược dược màu cánh sen này tao cắt thả vào chậu, giả làm hoa súng trông cũng đẹp lắm...
    – Ờ, trong chùa bên Pháp người ta cũng làm vậy đó.
    – Thấy chưa! Vậy, tao cũng có tâm Phật đó chứ.     –  Tôi mừng rỡ.
    – Thôi đi. Tâm của mày, tham sân si thứ gì cũng đầy trong đó.            
    – ...
    Trong phòng tắm, tôi dùng lọ nước hoa đã xài hết, cắm vào đó mấy cành phong lữ thảo, dưới chân lọ, tôi để vài cánh hoa. Tôi thăn thỉ:
    – Mấy lần đầu, phu quân tưởng hoa rụng nên dẹp đi. Sau, tao nói với anh, là tao cố ý trưng như vậy.
    – Mệt quá, mệt quá, sao compliquée dữ thần dậy.     –  Nisha chắc lưỡi: Tội nghiệp ổng quá! Thiệt, gặp rắc rối như mày, biết đường nào mà mò.
    Mấy ngày vui qua thật nhanh. Nisha về lại Pháp. Thần sắc phờ phạc vì thiếu ngủ, ăn uống thất thường. Ấy chết, phải ém nhẹm vụ này, chớ phu quân mà biết phu nhân khổ như vậy chắc ảnh tịch thu giấy phép xuất cảnh sang Đức của Nisha chứ chẳng phải chơi. Có người không biết, lo lắng thăm hỏi, tưởng Nisha mới bịnh xong. Nisha phải la toáng lên, rằng ta đây mới xuất ngoại, gặp bạn xưa, trải qua mấy ngày vui tàn canh gió lạnh.
    Nisha viết điện thư cho tôi, xác nhận, hoa thạch thảo tôi trồng đích thị là... hoa thạch thảo. Tôi mừng, thở ra. Ừ, khi nào mùa thu chết, thì chạy ra ban công mà... ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo... cây nhà lá vườn, nhanh, gọn, lẹ. Nisha kể cho phu quân và bạn bè về những giai thoại của tôi và hoa lá. Mọi người chắc mừng, vì thấy Nisha xem ra còn tỉnh táo hơn tôi. Không chừng phu quân bắt đầu lo, ngại vợ mình bị lây cái bịnh vẽ chân cho rắn, vẽ tên cho hoa của tôi. Ủa, mà sao không ai nghĩ rằng, nhờ tôi mà tự điển Việt Nam sẽ dài thêm mấy trang!
    Nisha trở thành lương y của tôi. Ấm đầu, sổ mũi tôi gọi cho Nisha trước khi tôi liên lạc bác sĩ gia đình. Tôi viết thư hỏi Nisha mẹo để chữa bịnh chuột rút. Tôi rất ít thì giờ để ngủ. May, tôi rất dễ ngủ và ngủ rất ngon. Ngồi trên xe buýt, còn vài phút phải xuống xe, mà lúc thèm ngủ quá, tôi vẫn giả bộ để cuốn sách trước mặt, rồi nhắm mắt để đó... Vậy mà, lâu lâu giữa đêm đang say giấc, bị chuột rút đau điếng, không cách chi ngủ lại được. Tôi than, xương cốt gì dễ đau, dễ trặc quá. Nisha khoái chí: “Đó, đó, bây giờ mới công nhận mình đã già hơn xưa, dù chẳng có năm tình nào lận đận cả”. Tôi cố vớt vát: “Chưa chắc, lấy gì đây đo ranh giới tuổi già, ngoài ra, trái tim có thể ca hoài bài khúc hát thanh xuân.”
    Tôi tặng Nisha một cây ớt hiểm khi Nisha trở về Pháp. Có lẽ tôi làm hư rễ cây, nên cây ớt không mơn mởn như cây tre Nisha mang qua tặng tụi tôi. Hai vợ chồng cứ như Lục Vân Tiên, thi nhau cưng cây ớt:
   
Anh chồng cõng ớt chạy ra,
Sợ ngoài trời lạnh, cõng ớt chạy vô.
Anh chồng cõng ớt chạy vô,
Sợ trong nhà nóng, cõng ớt chạy ra...
   
Tôi thương hai tấm thân già nên đề nghị, nếu thấy khó cứu, vặt hết trái, bỏ tủ đông đá. Bao giờ tụi tôi có tiếu ngạo… sang tây, sẽ cho cây ớt khác tươi tốt hơn xuất ngoại theo. Nisha khẽ khàng, thôi đành, ngậm ớt nhớ người. Vậy mà còn ráng thòng thêm một câu:
    – Ớt mày trồng sao cay xé miệng vậy? Bộ mày...
    – Ớt không cay, ai gọi là ớt.     – Tôi đanh đá. Nghĩ, tôi với bà Hoạn Thư đâu có họ hàng gì với nhau.
    Chúng tôi nỉ non với nhau hằng ngày trong điện thư. Lâu lâu, tôi viết thư xin Nisha công thức nấu ăn. Để coi, ăn gì cho bổ tim, chữa bịnh tim đập lỗi nhịp. Ăn gì cho bổ lòng, chữa bịnh lòng rối rắm. Gan tôi là gan thỏ, nhưng không thích ăn gan cho bổ gan. Những lúc có chuyện bực bội, tôi xây xẩm, tôi kêu Nisha ơi ới. Nisha trở thành bác sĩ toàn khoa, kiêm luôn cố vấn tâm lý. Nisha chẩn bịnh như thần làm tôi lắm khi thót cả ruột. Lạnh cẳng, tôi chỉ khai bệnh kiểu... nửa bước đường tình. Nisha ngăm nghe tôi, mày khai lơ mơ như vậy, tao biết đường nào mà bắt mạch. Nisha rủa tôi sa sả, cái tội nuốt trộng những bất bình, phật ý. Tôi cứ cái tật lừ đừ, một sự nhịn là chín sự... rầu. Trí nhớ của tôi thuộc loại trung bình yếu. Vậy mà, có những điều nên quên cho cuộc sống bớt lao đao, tôi lại cứ nhớ. Bao lần, tưởng rằng đã quên, khi vấp chuyện, ào ào trong trí nhớ của tôi sống lại bao chuyện cũ, thứ tự lớp lang, như những hàng sách ngay ngắn trong thư viện. Tôi học binh pháp tam bành lục tặc, nổi đình nổi đám hoài không xong. Nisha chì chiết, bịnh nhu nhược của mày thuộc loại trầm kha. Bao lâu nay xem như mày đã biết nhẫn. Nhưng sức người có hạn, coi chừng, có ngày mày sụm xuống hồi nào không hay... Nisha ra rả lên lớp cho tôi, những từ bi và hỉ xả, những khởi và tận, những duyên và số, những sắc sắc và không không... Tôi mang máng hiểu rằng, nếu không tiêu hoá được những sầu đau, tôi phải tập không để ý đến những hệ lụy lằng nhằng trong cuộc sống. Chứ tôi mà cứ tha mấy nỗi buồn về chất lổn ngổn trong lòng, thì lương y đành bó tay.
    Dù mới nói chuyện qua điện thoại, tôi vẫn nhớ Nisha. Tôi muốn Nisha nghe tiếng thở dài, dù rất sẽ sàng, của tôi. Tôi sẽ nói với Nisha rằng:
        – Ngày xưa khi mình học khâu vá, mày đã mạng chữ L rất đẹp, rất phẳng phiu. Còn tác phẩm của tao thì nhăn nhíu thấy tội nghiệp. Mấy chục năm qua, tao vẫn vụng về khi thấy rối rắm, chữ L như (tơ) lòng, dù đã cố gắng nhiều, tao chẳng mạng cho ngay hàng thẳng lối được.
    Bạn lòng thương mến chắc sẽ cầm tay tôi lắc lắc:
        – Mày nhớ, có nhạc sĩ nói như vầy nè. Hãy cố… lâu rồi đời mình cũng qua… Hay tốt hơn, đời mình cũng yên...  cho đời là bài thơ hạnh phúc, nhé, nhé.
 
– Hoàng Quân
 
Trích lời ca trong các nhạc phẩm:
 
Bạn Lòng của nhạc sĩ Hoàng Trọng
Cô Hàng Cà Phê của nhạc sĩ Canh Thân
Trúc Đào, thơ Nguyễn Tất Nhiên, nhạc của nhạc sĩ Anh Bằng
Có Bao Giờ Em Hỏi thơ Duyên Anh, nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy
Dưới Giàn Hoa Cũ của nhạc sĩ Tuấn Khanh
Mùa Thu Chết của nhạc sĩ Phạm Duy, phổ từ bài thơ tiếng Pháp L'Adieu của Guillaume
Bài Không Tên Số Năm của nhạc sĩ Vũ Thành An

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.