Hôm nay,  

Nguyễn Đình Toàn (1936-2023) – Nét nghệ thuật viễn mơ giờ u uẩn

04/12/202319:40:00(Xem: 2469)
Tưởng niệm Nguyễn Đình Toàn

NGUYENDINHTOAN TCP
Nhạc sĩ Trần Chí Phúc & Nhà văn Nguyễn Đình Toàn (2006).


Thường một nghệ sĩ được gọi chỉ một danh xưng, nhưng đối với Nguyễn Đình Toàn thì phải gọi là nhà văn nhạc sĩ mới đầy đủ; vì ông có nhiều tài năng về văn nghệ. Bao nhiêu người nhắc đến giọng đọc cùng lời văn của ông trong chương trình giới thiệu nhạc chủ đề trên đài phát thanh Sài Gòn trước năm 1975, đã quyến rũ nhiều thính giả.
    Trước năm 1975, bản Tình Khúc Thứ Nhất của Vũ Thành An, phổ thơ Nguyễn Đình Toàn có nét nhạc thanh thoát và lời ca bay bỗng được yêu thích.
    Sau năm 1975, một anh bạn từng là cựu tù cộng sản kể rằng trong lúc cả bọn đang cuốc đất khổ sai, thì một anh dừng cuốc và hát câu “ Đường về quê xa lắc lê thê, trót nghe theo lời u mê” trong bài ca nêu trên mà thấm thía nỗi buồn. Lời ca đó ám chỉ Việt Cộng đã ra lệnh cho các sĩ quan, viên chức chế độ Việt Nam Cộng Hòa thua trận, trình diện học tập chỉ 10 ngày; nhưng đó là lời lừa gạt, vì thực tế ít nhất là 3 năm, có người mười mấy năm, có người bỏ mạng.
    Rồi bản Em Đến Thăm Anh Đêm Ba Mươi có lời ca : “Anh nói với người phu quét đường, xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em” thật lãng mạn, làm say đắm giới học sinh sinh viên thời ấy, sau này tôi mới biết đó là ca từ của Nguyễn Đình Toàn.
    Nguyễn Đình Toàn là nhà văn nhưng cũng là nhạc sĩ viết ca khúc, và đây là ưu điểm giúp ông thực hiện chương trình nhạc chủ đề trên đài phát thanh Sài Gòn được mọi người nhớ mãi.
Sau khi Miền Nam Tự Do với thủ đô Sài Gòn thất thủ thì Nguyễn Đình Toàn bị tù Cộng sản 10 năm - thật là đau đớn vì thơ văn và ca nhạc của ông chỉ là thuần túy văn nghệ viễn mơ. Thử nghĩ ông sinh năm 1936, lúc sa cơ thất thế thì tuổi là 39 - đang thời sung mãn sáng tác của một nghệ sĩ, và gia đình con cái khổ nạn. Nhớ câu người xưa nói “ nước mất nhà tan “ thật là thấm thía!
    Lúc ông còn kẹt ở trong nước thì ca khúc Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên của Nguyễn Đình Toàn được phổ biến rộng rãi ở hải ngoại có câu mở đầu “ Sài Gòn ơi ta mất người như người đã mất tên”, rồi một số ca khúc của ông mang nỗi buồn thân phận quê hương như “ Tôi cố bám lấy đất nước tôi bằng sức người vô hạn...”
    Có lẽ sau này, thấy rằng trải tâm sự mình qua ca khúc thì dễ phổ biến hơn là thơ văn, cho nên ông viết nhiều ca khúc - tài văn chương của ông thể hiện qua những ca từ sâu sắc trong các bài hát - đây là nét riêng của nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn.
Năm 2006 ông phát hành 2 cuốn sách Bông Hồng Tạ Ơn 1 và 2, ghi vắn tắt tiểu sử và sự nghiệp của mấy trăm ca nhạc sĩ và có ra mắt cuốn này tại thành phố San Jose, California. Là nhà văn nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn từng thực hiện các chương trình nhạc chủ đề, cho nên ông có dịp tìm hiểu và biết nhiều về các ca nhạc sĩ thời đó mà viết cuốn này.
    Trong buổi ra mắt sách này năm 2006, thì nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng có đưa ra lời nhận xét rằng, đây là một tác phẩm không được trau chuốt tỉ mỉ bằng các tác phẩm của Nguyễn Đình Toàn trước đây.
    Hôm nay suy gẫm lại thì theo năm tháng trôi đi với dòng lịch sử nghiệt ngã, dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản lúc nào cũng muốn xóa bỏ dư hương của văn học nghệ thuật Việt Nam Cộng Hòa, thì 2 cuốn Bông Hồng Tạ Ơn, trở thành tài liệu quí giá đóng góp vào thư viện văn học nghệ thuật Sài Gòn của Miền Nam Tự Do mà Cộng đồng Người Việt Hải Ngoại tiếp tục gìn giữ.
    Trong một lần trao đổi câu chuyện văn nghệ thì anh Nguyễn Đình Toàn nói rằng “ nhạc của cậu là nhạc thời sự ”. Những năm sau này rảnh rỗi, tôi muốn thăm anh để hỏi kỹ càng về một thời văn học nghệ thuật Sài Gòn năm xưa nhưng anh sức khỏe kém và tôi không có dịp; thật là tiếc.
    Anh là nhà văn với nhiều tác phẩm, cuốn Áo Mơ Phai đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc, nhạc của Nguyễn Đình Toàn được hát trên băng nhạc Thúy Nga; hai đêm nhạc Nguyễn Đình Toàn thực hiện tại Quận Cam đông đảo khách tham dự.
    Anh là một nghệ sĩ tài hoa trong sinh hoạt văn học nghệ thuật của Miền Nam Tự Do - nét viễn mơ lãng mạn đó cũng là nét đẹp của nền văn hóa Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng thủ đô Sài Gòn đã thất thủ, kéo theo bao nhiêu thứ tan nát.
    Tôi vẫn nhớ nét mặt suy tư u uẩn của anh; mười năm tù đày, đất nước dân tộc vẫn còn nằm trong chế độ độc tài tham nhũng. Những văn nghệ sĩ một thời hoa mộng lần lượt giã từ nhân thế, còn lại là tác phẩm văn chương âm nhạc, trong đó có nhà văn nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn.

                                                                        

– Trần Chí Phúc

(Đầu tháng 12-2023)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.