Hôm nay,  

Qua Thiên Sơn đi trên Đường Tơ Lụa

18/11/202312:33:00(Xem: 1752)


Image result for mount tianshan
Rặng Thiên Sơn, Kyrgyzstan.


“Qua Thiên Sơn kìa ai chén rượu vừa tàn…” Đó là một câu trong Hòn Vọng Phu, bản trường ca bất hủ của nhạc sĩ Lê Thương, gồm ba bài sáng tác từ năm 1943 đến 1947, một trong những bản trường ca đầu tiên của nền tân nhạc Việt Nam.
    Lê Thương đã nghiền ngẫm đề tài người chinh phu từ lâu trước khi sáng tác. Theo Net, nhạc sĩ đọc thuộc “Chinh Phụ Ngâm”, cả nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn và bản dịch chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm. Ngoài ra, Lê Thương đã bắt gặp nhiều hình tượng người chinh phụ ngoài đời thực. Nàng Tô Thị bồng con chờ chồng đến nỗi hóa thành đá ở Lạng Sơn, người chinh phụ trên núi Đá Bia, ở Phú Yên, phía đông đèo Cả, thậm chí là cả Vọng Phu Thạch ở Trung Quốc khi ông vượt qua biên giới Việt-Trung. Tất cả những hình tượng này đều khiến Lê Thương đưa ra một chiêm nghiệm: Dù ở phương trời nào, chiến tranh luôn gây ra nỗi đau đè nặng lên người phụ nữ. Cảm xúc đó đã khiến nhạc sĩ xúc động sâu sắc để viết bộ ba bài hát Hòn Vọng Phu.
    Đoàn Thị Điểm đã viết trong đoạn mở đầu Chinh Phụ Ngâm:
 
Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh…
 
Tất cả những cảnh bi hùng trong Chinh Phụ Ngâm đều đã ẩn hiện trong trường ca Hòn Vọng Phu của Lê Thương:
 
Lệnh vua hành quân trống kêu dồn,
Quan với quân lên đường,
Đoàn ngựa xe cuối cùng,
Vừa đuổi theo lối sông.
Phía cách quan xa trường,
Quan với quân lên đường,
Hàng cờ theo trống dồn
Ngoài sườn non cuối thôn,
Phất phơ ngập trời bay. 
Qua Thiên Sơn kìa ai chén rượu vừa tàn,
Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn.
Người đi ngoài vạn lý quan san,
Người đứng chờ trong bóng cô đơn.
Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng
Người không rời khỏi kiếp gian nan
Người biến thành tượng đá ôm con”
 
Người chinh phu của Lê Thương xuất phát từ một miền nào đó trên đất Tầu, lội bộ hay cưỡi ngựa hàng ngàn dặm qua Man Khê, Tiêu Tương đến Tân Cương sát chân rặng Thiên Sơn, phía bên kia là vùng Trung Á. Sau bao nhiêu năm chinh chiến, chàng rong ngựa, hay lội bộ trở về, chàng không về trên đất Tầu mà lại xuôi Nam, về Việt Nam. Chặng đường thiên lý qua Vạn Xuyên, Cổ Lũy, đò Vạn Lý, đò Ải Quan, Cổ Loa, Vạn Kiếp… để về với nàng:
 
Bên nợ tình thâm, bên nợ giang san
Bên đồi ai oán, bên rừng đa đoan tiễn đưa bóng chàng
Đường về nước chập chùng xa
Nhiều đồi núi cheo leo
Cây với rừng rườm rà
Đường Vạn Xuyên, đường Cổ Lũy
Duyên núi sông vẫn như thắm nhòa

Đò Vạn lý, đò Ải quan,
đò rừng lá nước trong bao cá lội từng đàn
Thành Cổ Loa, Đền Vạn Kiếp,
Bao tháng năm vẫn chưa xóa nhòa...
 
***
 
Chúng tôi cũng đã đến rặng Thiên Sơn, như chàng chinh phu của Lê Thương nhưng ở phía bên này của miền Trung Á, xứ Kyrgyzstan. Không vất vả cưỡi ngựa hay lội bộ hàng năm trời, nhưng phải chuyển ba chuyến bay và mất gần 30 giờ. Từ Seattle, một thành phố ven biển Thái Bình Dương, phía Bắc nước Mỹ, chúng tôi bay qua New York, theo ngả Thổ Nhĩ Kỳ, chờ ở Istanbul khá lâu để bay tiếp đến thủ đô Bishkek của xứ Kyrgyzstan. Còn một ngả khác là bay qua Moscow. Trước khi đi, tôi đã đọc khá nhiều trên Internet, vì đến một xứ xở quá xa lạ và dùng tài liệu này để viết được bài này. 
    Kyrgystan là một quốc gia nhỏ bé nằm lọt giữa đại lục Á Châu, bị “khóa” mọi mặt không có biển. Diện tích 76,641 dặm vuông, năm 2020, dân số là 6,524,195. Hãy thử so sánh với Việt Nam, dân số trên 97,338,579 gấp 14 so với Kyrgyzstan và diện tích là 127,882 dặm vuông chỉ gấp 1.7. Trong khi đó chỉ riêng dân số thành phố Saigon đã trên 8 triệu rồi. 
    Kyrgyzstan phía đông ngăn với nước Tầu bởi rặng Thiên Sơn đầy hiểm trở, các mặt khác giáp với một số quốc gia mà tên đều có vần cuối là “stan”, có nghĩa là “đất”: Kazakhstan, Uzbekistan, Tajikistan, Turkmenistan. Kyrgyzstan thuở xưa  là trung tâm trao đổi của Đường Tơ Lụa. Con đường này  là một mạng đường không những chỉ về thương mại nối giữa Đông và Tây, nó cũng là trung tâm giao lưu về kinh tế, chính trị và tôn giáo giữa hai vùng từ thế kỷ thứ hai trước Thiên Chúa cho tới thế kỷ thứ 18. Đường này nối vùng Đông Á, Đông Nam Á với vùng Nam Á, Ba Tư, bán đảo Ả Rập, đông Phi Châu và nam Âu Châu. Khởi đầu, nhà Hán bên Tầu kéo dài con Đường Tơ Lụa về phía tây từ năm 207 BC, họ  cử tướng Zhang Qian mang binh đoàn đi chinh phục thêm đất đai, bảo vệ hàng hóa, cũng như xây nối dài thêm Vạn Lý Trường Thành bảo vệ con đường này và sự di chuyển hàng hóa.
    Con Đường Tơ Lụa còn đóng một vai trò đáng kể trong sự ảnh hưởng khai hóa nền văn minh của các nước Tầu, Đại Hàn, Nhật Bản, Ấn Độ, Iran, Âu Châu, Horn of Africa và Ả Rập. Tuy rằng lụa là phẩm vật chính xuất cảng từ Tầu, nhưng còn có nhiều hàng hóa khác cũng như các nền văn minh được trao đổi, hay hòa đồng tôn giáo, tư tưởng, triết lý, khoa học và kỹ thuật như chế tạo giấy, thuốc súng… Đồng thời, nhiều nhà sử học tin rằng con Đường Tơ Lụa cũng là con đường truyền một trận dịch khủng khiếp trong lịch sử nhân loại, được mệnh danh là “Tử Thần Đen” (The Black Death) do các thương nhân đem vào Âu Châu trong thế kỷ 14. Trong 4 năm từ 1347 đến 1351, đã giết hại từ 75 đến 200 triệu người. 
    Marco Polo đã đi trên con đường này. Ông sinh năm 1254, tại Venice, Ý, là một thương gia và là nhà mạo hiểm đã du hành từ Âu châu qua Á Châu trong những năm từ 1271 đến 1295. Ông ở lại Á Châu 17 năm. Cuốn sách “Il Milione” (The Million) của ông được dịch sang Anh ngữ “Travels of Marco Polo” là một cuốn sách kinh điển về du lịch.
    Không thể nào không nhắc đến cuộc xâm lăng và tàn sát của quân Mông Cổ tại vùng Trung Á và các vùng họ đi qua: “Vó ngựa của Mông Cổ đi đến đâu là cỏ không thể mọc được”. Năm 1220, Genghis Khan đem quân vượt qua Thiên Sơn, đánh bại đế quốc Khwarazmian. Sau đó,  tiến sâu vào Đông Âu sát tới Hắc Hải, và cả Âu Châu bị đe dọa. Cuộc trường chinh của Genghis Khan gây bão táp, tàn bạo này chấm dứt hai mươi năm sau, năm 1240.
    Sau này, vùng phía Tây bên rặng Thiên Sơn đã sản xuất được tơ lụa và đường biển được các nhà hàng hải nối liền giữa Âu và Á, nên con Đường Tơ Lụa quá vất vả, quá mất thời giờ đã chóng vánh chấm dứt.
 
blank
Đường chỉ  là những con “Đường Tơ Lụa”cũ.
Thị trấn Osh là khu chợ lớn tập trung trao đổi hàng hóa.

See the source image
Đường Tơ Lụa mầu đỏ và Vành Đai mầu xanh mới của Trung Cộng.
 
Chắc sẽ có một câu hỏi đến với chúng tôi, cớ sao lại tìm một chỗ xa xôi “oái oăm” như thế để đến. Số là chúng tôi có cô con gái út, nếu ngồi tính lại sau khi ra trường đến nay thì hầu gần như suốt thời gian đó sống ở ngoài nước Mỹ. Một năm ở Tây Ban Nha, hai năm ở Đức, ba năm ở Argentina lấy bằng MA về Bang Giao Quốc Tế, rồi cô lập gia đình, chồng là người bạn học Umar Shavorov, cùng lớp tại trường đại học tại Buneos Aires và là người Kyrgyzstan, khi hai người gặp nhau lại lúc cùng làm cho World Bank tại D.C. Đám cưới của hai người được tổ chức tại hai địa điểm. Tại Saigon, trên con thuyền rồng sơn mầu vàng đi từ bến Nhà Rồng tới Bình Quới resort, hai cô cậu trong y phục Việt Nam truyền thống. Ngoài sự tham dự của họ hàng và thân quyến chúng tôi ở quê nhà, từ Kyrgyzstan, bà mẹ chồng và các em chú rể cũng mặc áo dài Việt Nam, lần đầu  nếm thử các món ăn của người Việt. Sau đó, ở lại Mỹ một năm để chồng lấy nốt bằng MA Quản Trị Công Quyền tại Harvard và thêm một năm ở với chúng tôi để chăm sóc hai đứa con sinh đôi một trai một gái. Khi hai đứa nhỏ biết đi, hai vợ chồng lại nhận việc chuyển sang Bogota, Colombia và ở đó một nhiệm kỳ ba năm.
    Hiện nay cô đã  theo chồng về  Kyrgyzstan nhiều năm, với ý định giúp chồng phục vụ quê hương, mong theo kịp thế giới bên ngoài. Tôi thầm nghĩ, những nước mà tiền thân là Cộng Sản, thì khó lòng họ có thể chấp nhận những người có bằng cấp Âu Mỹ vào những chức vụ để tài năng được hữu dụng. Chúng tôi thường bảo mấy cô chị khuyên em nên trở lại Mỹ, đừng ở nước ngoài quá lâu, nhưng có cô lại nói, về Mỹ thì không thể có được đời sống dễ dàng như thế. Ở bên đó, hai vợ chồng  đều làm cho các cơ quan quốc tế, con cái học trường quốc tế, tiệm ăn và các nơi giải trí cũng không thua kém Mỹ mà lại có những đặc điểm địa phương… Cho nên khi gia đình cô chưa về Mỹ thì  chúng tôi thường bay đến đó để thăm, cũng giống như người ta đi du lịch vậy.
 
***
 
Chuyến bay của chúng tôi từ Istanbul đến Bishkek, thủ đô của Kyrgyzstan hạ cánh trong buổi sáng. Vợ chồng con gái tôi đến đón và đưa thẳng đến một tiệm phở, chắc là sợ chúng tôi đói và không quen món ăn bản xứ. Đây là một tiệm phở mới mở, có thể nói là độc nhất tại của xứ này. Tiệm có tên là Phở Hanoi, chủ quán là một người còn trẻ, nói tiếng Nga thông thạo, vì các quốc gia vùng Trung Á hay Đông Âu đều dùng tiếng Nga là ngôn ngữ chính. Chúng tôi xem thực đơn, cũng có nhiều món và tôi gọi thêm một tô phở mà anh ta khoe là đúng phở Hà Nội. Anh mang thức ăn ra và đứng lại bàn hỏi chuyện, một hai người phụ bếp thấy có nhóm người Việt đến ăn, cũng bỏ bếp ra cùng góp chuyện. Anh chủ tiệm cho biết là anh sanh ở Bắc Ninh, còn tôi ở Hà Nội. Chúng tôi cùng nói chuyện về quê hương cũ. Anh đã ở Nga nhiều năm, và đã đi khắp nơi, mang tiền để dành về Việt Nam hai lần làm ăn đều thất bại, rồi lại ra đi. Anh nói, người Việt đều tập trung ở đây, có khoảng 30 người. Tôi hỏi thăm về gia đình, anh nói chỉ mang theo một đứa con trai sáu tuổi. Tôi nghe như có thêm một cái gì đổ vỡ. Thì ra bên cạnh bát phở ở một góc trời đó, còn biết bao nhiêu là tình tự quê hương của những người tha hương, và những cảnh đời như những cánh chim viễn xứ bạt ngàn. Tôi hẹn anh sẽ quay trở lại. 
 
***
 
Lịch sử cận đại, Kyrgyzstan cũng như các nước trong vùng Trung Á trải qua bốn thời kỳ: Thời kỳ Đường Tơ Lụa, Thời kỳ thuộc Nga Hoàng, Thời kỳ thuộc Liên Xô và Thời kỳ Độc Lập hiện nay. Trong gần 100 năm, các xứ này đều là chư hầu thuộc Liên Xô Nga và đã đưa những nước này gần như đến đích của xã hội chủ nghĩa, nghĩa là bần cùng hóa dân chúng trong chế độ bao cấp. Đi ra đồng ruộng làm chung, vào nhà máy làm cho hết giờ,  có ăn, có  mặc tối thiểu. Không còn cái gì để tranh giành, vun xén cho mình. Bản chất du mục, tất cả lè phè, cứ để chính phủ lo cho qua ngày, khiến một số dân đại lãn bây giờ vẫn còn muốn nằm ườn mơ lại những ngày cũ.  
   Năm 1981, Nga Xô sụp đổ, lo không nổi cho chính mình, bỏ mặc chư hầu khiến cho một số nước như Kyrgyzstan chới với rơi vào khoảng không. Dân chúng mất hết kỹ năng sinh tồn.
    Đặc biệt là hầu hết các chư hầu thuộc Nga trở thành độc lập và theo chế độ đại nghị, dân chủ và đa đảng. Kyrgyzstan là một trong số quốc gia nghèo nhất Trung Á, nhưng lại được mệnh danh là một nước “Dân chủ nhất” trong vùng. Không phải là lưỡng đảng mà có tới hơn 16 đảng, có thể vì thế mà nền chính trị đã có lúc không ổn định.
    Trong 20 năm qua, nước này có 5 đời Tổng Thống. Hai vị đầu tiên bị truất phế là  Askar Akayev và Kurmanbek Bakiyev và phải sống lưu vong vì tham nhũng và hối mại quyền thế. Sau đó, một vị lãnh đạo phụ nữ đầu tiên trong vùng Trung Á, là bà Roza Otum Bayeva đã nhận làm Tổng Thống lâm thời đứng ra tổ chức bầu cử chuyển quyền hành một cách hòa bình. Bà quyết định không ra ứng cử. Tổng Thống tiếp theo là Almazbek Atambayev, cũng không khỏi mắc tội tham nhũng và hối mại quyền thế và bị kết án 11 năm tù. Trong mấy tháng vừa qua, cuộc bầu cử nghị viện tháng 10/2020, đảng của Tổng Thống Soorobay Jeenbekov đương nhiệm chiếm số ghế tối đa, đã bị phanh phui là bỏ tiền ra mua phiếu nên bạo loạn phản đối dữ dội khiến 1 người chết và hơn một ngàn người bị thương. Tổng Thống Jeenbekov đã xin từ chức.
    Có một điều cựu tổng Thống Atambayev đang ở trong tù được một phe đối lập cứu thoát ra khỏi, nhưng sau đó đã tự động đi vào tù lại. Một lãnh tụ đối lập khác Sadyr Zhaparov đang ở trong tù được đưa ra giữ chức Thủ Tướng tạm thời để tổ chức bầu cử lại và được bầu làm Tổng Thống cho tới nay.

 
   Các cuộc biểu tình có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Biểu tình liên hệ đến chính trị, chống xí nghiệp Tầu cũng xẩy ra. Trong cuộc bạo loạn không có tin cảnh sát hay công an của chính quyền bắt bớ hay đánh đập, mà chắc là các phe đảng đối lập đập lộn lẫn nhau nên đã gây ra nhiều thương tích. Báo chí không thấy đăng tin công an bắt giữ ai, chỉ thấy tin những người bị thương được đưa vào bệnh viện.
    Kyrgyzstan đã thặng dư các quyền Tự do Dân chủ, quyền bỏ phiếu, quyền ứng cử, quyền lập đảng đối lập, quyền biểu tình và nhất là quyền độc lập của ngành Tư pháp bắt bỏ tù bất cứ Tổng thống nào tham nhũng và hối mại quyền thế. So với thế giới thì nhiều nước đã không hề có một thứ đặc quyền như họ. 
    Trong bang giao quốc tế, Kyrgyzstan một thời đã để cho Mỹ thuê phi trường quân sự dùng để chuyển vận trong khi tham chiến tại Afghanistan. Ít năm sau đã rút lại lệnh cho thuê này. Vì nằm sát cạnh nước Tầu, và sẵn là một đường dây “Tơ Lụa” cũ,  Kyrgyzstan đã nhận trợ giúp đầu tư đáng kể của Tầu về hệ thống xa lộ, du lịch và các kỹ nghệ sản xuất sữa, xi măng hầu hết được xuất cảng sang Tầu. Đặc biệt quan trọng, theo tài liệu, Kyrgyzstan là nước đứng đầu trong vùng Trung Á nhập cảng hàng của Tầu và  “đổi nhãn” để xuất cảng lại sang Nga và các vùng khác. Nguồn lợi đứng thứ nhì đã đóng góp vào nền kinh tế của nước này là ngoại hối của  những người lao động từ nước ngoài gửi về và sau cùng là nguồn thu khai thác từ mỏ vàng khổng lồ Kumtor. 
Tuy có nhiều liên hệ về kinh tế, nhưng ảnh hưởng về văn hóa của Tầu rất hạn chế, vì người dân chúng luôn luôn e ngại sự lấn áp của Tầu với một nước nhỏ như họ. Chính quyền Tầu thường than phiền là doanh nhân của họ luôn luôn bị tấn công. Nhất là Kyrgyzstan lại là một mối liên hệ quan trọng về địa chính với Nga. Hai nước này từ bao lâu đã có những hiệp ước quan hệ về quân sự, kinh tế, và Nga đã cung cấp nhiều hỗ trợ tài chánh và giảm các món nợ cho nước này. Vì thế mà Tầu không thể vượt qua những đường ranh nhạy cảm này.
 
***
 
Chúng tôi ở lại thủ đô Bishkek  hai tuần. Từ đó, dùng xe và máy bay đi thăm một số vùng khác. Bishkek là một thành phố được thiết kế và xây dựng lại bởi người Nga trong thế kỷ thứ 19. Đại lộ và đường phố rộng rãi xây theo mẫu ô vuông, vỉa hè khang trang, cây lớn được trồng hai bên đường xanh mát, không có nhiều cao ốc, trông giống như một thành phố cổ bên Âu Châu. Các trục giao thông cũng  thoải mái, không ồn ào, không thấy có xe gắn máy. Ngoài các quán ăn địa phương, các nhà hàng, quán cà phê chúng tôi đến đều có tiêu chuẩn của Âu Châu.  
    Dù là một nước theo Hồi Giáo, nhưng y phục nam nữ của họ theo Âu Tây, ít mầu sắc, không che mặt hay vải phủ che kín từ đầu xuống chân. Không thấy ai trải khăn phủ phục lễ mỗi ngày mà ta thường thấy ở những quốc gia Hồi Giáo khác. Tôi cũng không nhìn thấy nhiều nhà thờ Hồi Giáo mà thấy có các nhà thờ đạo Orthodox. Y phục cổ truyền đặc biệt của họ với nhiều mầu sắc, may cầu kỳ, chỉ được sử dụng trong các buổi trình diễn biểu tượng của một thời cổ xa xưa…  
    Theo thống kê, dân số Bishkek năm 2021 là 1,060,000. Có thể là một sự ngạc nhiên khi thấy nhiều dân Âu châu da trắng sống lâu năm ở đó, thành cư dân địa phương, làm những nghề bình thường như mọi người. Họ là những dân tị nạn trong thời các thế chiến lánh nạn đến đây và ở lại trong nhiều thế hệ. Sau này, số đông đã bỏ về xứ cũ, hay sang các quốc gia khác có lợi tức khá hơn và vì cũng thường bị kỳ thị, không thể tham gia guồng máy chính quyền.
 
az 1
Vợ chồng tác giả với khu lều Yurt tân trang.
 
Lần đầu, chúng tôi lái xe ra khỏi thành phố, lên phía Bắc, sát với biên giới với nước Kazakhstan, một quốc gia lớn có nhiếu tài nguyên. Xe chạy qua các vùng  mênh mông toàn đồi  đá xen với cỏ xanh, ít thấy làng mạc. Thỉnh thoảng xe phải dừng lại để tránh mấy con sơn dương, lông dài quắn lại, đứng bên đường yên lặng ngắm chúng tôi. Có lúc lại phải tránh những đàn bò, đàn ngựa mà những người đi chăn thường cưỡi ngựa như cowboys xứ Mỹ. Đi qua một đường dây cáp trượt tuyết trong mùa hè đến một khu rừng, cây xanh cổ thụ cô lập, được thiết kế thành một khu resort lớn khá đặc biệt. Du khách đến ngụ trong các lều du mục tân trang, tiện nghi thích hợp, trên các đồi cao nhìn xuống thung lũng chạy dài phía dưới. Thức ăn của họ khá ngon, có hương vị đặc biệt và được trình bầy mỹ thuật. 
    Lần thứ hai chúng tôi lái xe dọc phía nam hồ hướng về rặng Thiên San. Hồ Issyk Kul là một hồ nước mặn, chiều dài 182 km trải từ tây sang đông, chiều ngang rộng tới 61 km, chiều sâu có chỗ tới 702 m, nước trong có thể nhìn xuống sâu tới 20m. Đứng bên này hồ không nhìn thấy bờ bên kia. Không thấy thuyền bè qua lại, cũng không thấy các bè nuôi cá. Nếu đặt hòn đảo Phú Quốc lớn nhất của Việt Nam vào lòng hồ sẽ nằm thọt lỏn.  Lần này chúng tôi được ở trong các lều du mục Yurt thật sự bằng khung gỗ và bao quanh bằng vải. Bên trong giường ngủ, chăn màn, cách trang trí thêu dệt giống hệt như thời du mục của “Đường Tơ Lụa” thuở xưa. 
    Buổi ăn tối, ngồi trên thảm, lưng dựa vào những chiếc gối thêu xem họ trình diễn ca nhạc và các điệu múa trong một căn lều khổng lồ có thể chứa được hơn trăm người. Lần đầu tiên, chúng tôi gặp một đoàn du khách người Pháp ở đó. Sáng hôm sau, chúng tôi tới một cánh đồng rộng, tập bắn cung, được nâng một chú đại bàng nặng chĩu  tay và tung lên trời để rượt bắt con thỏ giả được kéo chạy ngoài xa.   
 
az 2
Tác giả với Đại Bàng săn mồi.
 
Lần cuối, chúng tôi lấy máy bay xuống Osh, một thành phố lớn thứ nhì, với dân số là 243,300 và là quê của con rể chúng tôi. Giờ bay chỉ gần một giờ, nếu lái xe cần một ngày đường vì phải vượt qua một rặng núi ngăn hai miền Bắc Nam. Con rể tôi nói, đường đi quanh co nhưng trên các đỉnh cao toàn cảnh rất là hùng vĩ.
    Khác với Bishkek, thành phố Osh còn giữ nhiều nét của một thời của Đường Tơ Lụa  xưa. Nhiều khu đường phố rộng không thẳng đường và không có vỉa hè. Đặc biệt nhất khu chợ trời còn sót lại, rất rộng , gồm nhiều mẫu đất. Trên đó, gồm những căn lều lớn phủ bạt, những khu gồm những dẫy gian hàng bằng vật liệu nhẹ, hình như lúc nào cũng thấy họ sửa sang chắp vá lại. Họ bầy bán đủ thứ thượng vàng hạ cám. Từ các đồ dùng nhỏ nhặt gia dụng,trong nhà, giầy dép quần áo, đồ chơi, hàng nhựa cho tới các tiệm nữ trang bằng vàng thật.
    Đặc biệt có hai khu, khu bán hương liệu, hoa quả thực phẩm khô để dễ dàng mang theo cho những cuộc hành trình xa. Khu thợ rèn, có nhiều tiệm, tiếng búa đập trên đe chối chang vang cả một vùng. Nghề thủ công này, tôi từng thấy được ở những làng quê Bắc Việt trong thập niên 40, tôi tưởng như đã biến mất trên trái đất từ lâu rồi. Nhìn những thân hình mồ hôi bóng nhẫy, bắp thịt nổi cuồn cuộn giơ cao búa, nện liên tiếp xuống mảnh thép đỏ rực đang được rèn thành một vật dụng. Có một điều khác biệt ở đây thay vì phải có một người kéo bễ để thổi lửa thì họ dùng bằng các bình khí đốt. Tôi có để ý đến những thứ họ sản xuất ra, vẫn là những vật dụng cổ truyền cá nhân của nghề nông như liềm, cào, dao rừng ...hay những thứ gia dụng bằng kim khí và còn có những thứ khác mà tôi không hình dung được để dùng làm gì. Tôi nghĩ rằng nghề thợ rèn này còn tồn tại, từ những thế kỷ của Đường Tơ Lụa, từ thời những cuộc hành trình hàng ngàn dặm thồ hàng trên lưng ngựa hay lưng lạc đà, chắc chắn đến nay xã hội này vẫn còn những nhu cầu riêng biệt, những thứ mà thế giới tiến bộ dập khuôn sản xuất hàng triệu vật như nhau đã không thích hợp với họ.
    Hôm sau Umar chở chúng tôi đi thăm làng quê, nơi còn người bà nội và các chú bác anh em. Chúng tôi lái xe qua những vùng ruộng đồng mênh mông, không bị phân chia nhỏ, chắc đã chịu  ảnh hưởng của thời Hợp tác xã tập thể. Xe chạy trên một xa lộ dài khá tốt, quang đãng an toàn, đây là con đường vòng đai của Trung Cộng làm, con đường Tơ Lụa Mới. Xe dừng nghỉ và đổ xăng tại một “rest area” khá lớn, gồm một nhà hàng gần trăm bàn, trần cao trang trí hợp thời. Thức ăn nóng, bánh trái hoa quả tự chọn trong các quầy kính dài tiêu chuẩn. Bên cạnh là những tiệm bán hàng lưu niệm. Các phòng vệ sinh được trông nom sạch sẽ thường xuyên.     
    Trung Cộng còn làm một đường xe lửa dài hơn 400km, nhưng chúng tôi không có dịp đi thăm. Kyrgyzstan cũng như nhiều quốc gia khác đã mắc vào cái bẫy nợ không biết bao giờ mới trả xong. Trong thời đại dịch, kinh tế khó khăn khiến nước này đã phải xin khất nợ. Riêng Nga Xô thì đã có lần xóa hết nợ cho Kyrgyzstan.
    Tuy gọi là làng nhưng đất rộng nên nhà này cách nhà kia khá xa, không xây chen chúc sát  nhau. Nhà của họ được xây bằng gạch  rộng rãi khang trang, trần cao, thềm nhà có bậc, tường dầy, cửa kính, mái nhiều lớp để chống cái rét trong mùa tuyết lạnh. Nhiều gia đình sống tam đại đồng đường, có xe hơi để di chuyển. Tôi có cảm tưởng họ sống gần như tự túc, có vườn trồng rau, cây trái. Nước dùng cho gia đình và tưới rau được dẫn bằng một đường ống cao su từ các con suối, chẩy thường xuyên tràn trên sân gạch ra vườn, không cần bể chứa. Nhà nào cũng có một dẫy chuồng nuôi súc vật dê, cừu… và cỏ khô chất đống để  nuôi gia súc trong mùa đông. Có nhà lại làm nhiều tổ nuôi ong lấy mật trong vườn. 
    Họ hàng của Umar khá đông ở Osh, nhà cửa trang trại khang trang, có ông chú là là biện lý, hai vợ chồng người em là hai bác sĩ chuyên khoa ... Họ rất ân cần, hiếu khách, từng gia đình thay nhau tiếp chúng tôi nồng hậu. Bữa tiệc nào cũng thấy đầy đủ họ hàng con cháu trong nhà, theo cách truyền thống, thức ăn thịnh soạn bầy đầy trên một bục rộng có trải thảm chiếm gần căn phòng, mọi người ngồi quanh có những chiếc gối thêu lớn dùng để ngồi hay để dựa vào tường. 
 
A table full of food

Description automatically generated with medium confidence
Một trong những bữa tiệc thết đãi.
 
Tôi có dịp đi quanh nhà thăm khu vườn rộng như một trang trại nhỏ. Theo dọc theo một con đường đá nhỏ, hàng rào cây hai bên nở đầy hoa, cảnh quá thanh bình, bao nhiêu năm chiến tranh không đến với họ. Tự nhiên tôi nhớ đến cái tình tự quê hương của một thời xa xôi lắm, cũng có thanh bình, có khu vườn trồng cải vàng với bướm trắng, có hàng rào hoa dại, có đường vào xóm giếng ngày xưa vắng lặng... Tôi trèo lên một sườn đồi cao lúc nào không biết, nhìn xuống dưới, một con suối lớn nước chẩy ào ào, vỗ vào các tảng đá giữa dòng tung bọt trắng xóa. Tôi  lại nhớ đến những giấc mộng lãng mạn ngày còn trẻ. 
    Nhớ bài hát Suối Mơ của Văn Cao “Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối, Nghe suối róc rách trôi hoa lừng hương gió ngát, Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi”. Nhớ bài thơ Cô Hái Mơ của Nguyễn Bính: “Nhà tôi ở dưới gốc cây dương, Cách động Hương Sơn nửa dặm đường. Có suối nước trong tuôn róc rách, Có hoa bên suối ngát đưa hương”.
    Trước khi rời làng, tôi nói đùa với một ông chú của Umar là tôi muốn ở lại đây, có một căn nhà xây bên dòng suối, ông ta bèn nói với tôi ngay không suy nghĩ: “Ông cứ chỉ cho tôi bất cứ chỗ nào đất còn trống, chúng tôi sẽ giúp ông dựng căn nhà như ý của ông”. Chuyện đùa nhưng nghe quá dễ dàng thành sự thật.
    Tôi nhớ có hẹn anh chủ tiệm Phở Hà Nội sẽ quay trở lại, nhưng chúng tôi đã không còn đủ thời giờ vì sau đó vợ chồng cô con gái lại đưa đi thăm các vùng xa. Xin để lại lời chào và mong có ngày gặp lại.
    Trong lòng lúc nào cũng muốn quay lại thăm lại rặng Thiên Sơn quanh năm phủ tuyết, những vùng thảo nguyên mênh mông, những đồi cỏ chập chùng lượn sóng, cảnh những đàn ngựa thả hoang in hình trên những ngọn đồi cỏ,  và những đêm ngủ trong các lều du mục… của một vùng  đất còn dấu nguyên thủy, như những viên đá quý còn dấu kín chưa tìm thấy.
    Nhiều lúc tôi tự hỏi, ngoài các chỉ số mà các nước đang mở mang vất vả cố để nâng cao lợi tức đầu người, sản lượng quốc gia  và đạt được những cái đích phát triển đã tạo ra một xã hội tranh đua đến độ thiếu nhân bản và đạo đức, chắc là còn phải tìm đặt ra những chỉ số hạnh phúc căn bản cho con người mà chúng tôi vừa sống ít ngày với những người của “Thời Tơ Lụa”, trong một  vùng thảo nguyên  mênh mông, an bình với những giấc mơ xưa.
 

Nguyễn Công Khanh




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Memphis là thành phố lớn của tiểu bang Tennessee, nổi tiếng là một trong những cái nôi của dòng nhạc Blues & Jazz của nước Mỹ. Cách đây 4 năm, tôi lái xe đến thăm Memphis chỉ để được nghe nhạc Blues “nguyên chất” tại B.B King’s Blues Club, một trong những “việc đáng làm trong đời” đối với những người mê nhạc Jazz. Nghe nhạc Jazz ở Memphis sẽ thấy được dòng nhạc như chảy trong huyết quản của người da đen ở Miền Nam Hoa Kỳ. Vào đầu tháng 10 năm nay, tôi trở lại thành phố Memphis, nhưng đó không phải là đích đến của chuyến đi. Memphis có phi trường chỉ cách Tu Viện Mộc Lan khoảng hơn một tiếng lái xe. UH, một cô bạn đồng tu đã từng cùng học với một vị thầy, cùng sinh hoạt trong một nhóm Phật tử ở Quận Cam California được chấp nhận vào ni đoàn, làm lễ xuống tóc xuất gia tại Mộc Lan. Tôi cùng một nhóm bạn nhận lời mời đến dự sự kiện trọng đại của một đời người này.
Đọc xong email của Cathy, Khôi mỉm cười khoan khoái, bước xuống phòng khách pha cho mình ly cà phê nóng của buổi sáng cuối tuần. Trời đã cuối Thu, những chiếc lá khô cuối cùng lao xao đuổi nhau theo những cơn gió nhẹ trên mặt đường, tạo nên một âm thanh vui tai. Hàng cây khô trụi lá khẳng khiu đang rung rinh trước gió, chuẩn bị cho những ngày đông dài sắp tới. Khung cảnh thật bình yên. Bình yên như tâm hồn Khôi sau những tháng ngày băn khoăn, ray rứt đã qua.
Vào cuối tháng 5 vừa qua, tôi lại có dịp quay trở về lại mái trường xưa, để tham dự buổi lễ ra trường của một cháu gái Cynthia Ngô, được lãnh nhận bằng Tiến Sĩ Luật Khoa, tại Đại Học Oklahoma City University (OCU), mà tôi là người đỡ đầu (God Father) khuyến khích cho cháu này theo học ngành luật khoa, cũng tại ngôi trường trước kia tôi học.
Dù bạn chưa từng đến Huế, nhưng đã từng nghe tiếng địa danh này qua hai câu hò quen thuộc: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương... ..
Đây là chuyện tình yêu xưa, xa xưa lắm rồi, nhưng dư âm vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm đến thế hệ chúng ta hôm nay… hình như con người sống nương tựa rất nhiều vào tình yêu… tình yêu cho con người nhiều ý nghĩa thiêng liêng, nhiều gia vị đậm đà đáng sống. Nếu hỏi tại sao là vậy, thì thưa rằng bên cạnh tình yêu và cuộc mưu sinh, ta còn có những gì? Bầu cử ư, bầu cử đã qua rồi, ngã ngũ rồi, không còn gì để bàn nữa. Nhưng nếu bạn muốn theo dõi hậu bầu cử, đó cũng là ưu điểm, coi thế sự cuộc đời sẽ diễn tiến ra sao những ngày sắp tới. Trước mắt, bên cạnh, xung quanh còn vây phủ đe dọa đầy chiến tranh tàn khốc hủy diệt đe dọa sự sống còn của nhân loại bằng những vũ khí của khoa học hiện đại tân tiến, cộng với lòng ác độc của tham vọng, của chính trị không phương giải quyết.
Một người bạn nói với tôi rằng có những bài thơ hoặc những đoạn văn nằm hoài trong đầu của mình từ hồi còn nhỏ, nên khi được nhắc tới thì tự động tuôn ra. Tôi thấy có lý. Mỗi khi có dịp nói chuyện với ai về lòng biết ơn, tôi cứ như theo quán tính, chia sẻ một bài thơ ngày xưa tôi học ở bậc Tiểu Học. Không hiểu vì sao! Vì mình có tính hoài cổ? Hay vì đầu óc tuổi nhỏ dễ khắc ghi? Hay vì đây là bài học bắt buộc trong sách giáo khoa? Hay chỉ đơn giản là vì bài thơ có lời lẽ giản dị mà sâu sắc?
Nắng đã tắt từ lâu. Trời đen thẫm bên ngoài. Mùa đã về qua những chiếc lá vàng rơi rải rác theo những câu thơ trong những tạp chí văn chương của thành phố. Mùa thu nằm co trên trang giấy. Heo may lẩn quẩn đầu môi những kẻ gạ tình. Không có mùa thu ngoài đời sống ở nơi này. Hơi nóng vẫn râm ran không khí. Bên ngoài vắng gió. Trong này, chiếc quạt trần lờ lững quay. Và cuộc đối thoại nhì nhằng mãi chẳng đi đến đâu.
Đi dạo trong công viên Vigelandsanlegget, trời rét căm căm. Bỗng dưng, tôi nghe tiếng nhạc réo rắt. Một nhạc công phong cầm ngồi giữa băng tuyết, đang chơi bài Sóng Nước Biếc. Thật là tình cờ kỳ diệu. Mới hôm qua, hôm kia, ở Đức, khi chậm chân nghe nhạc công chơi phong cầm ở nhà ga, trí tôi lao xao nhạc điệu bài Sóng Nước Biếc. Bươn bả chạy nhanh cho kịp giờ xe, tôi tiếc, định bụng hôm nào thuận tiện sẽ đến yêu cầu. Hôm nay, ở Oslo, tôi được nghe Waves of the Danube của nhà soạn nhạc người Lỗ-Ma-Ni, Iosif Ivanovici. Lời Việt Sóng Nước Biếc của nhạc sĩ Phạm Đình Chương thật tuyệt vời. Trong cái lạnh cắt da, giữa công viên rộn ràng du khách, tôi mơ màng.
Bạn bè hay nói tôi khó chịu từ khi còn nhỏ, như ngẫu hứng ghé nhà người bạn học nào đó trên đường đi học về. Dĩ nhiên tuổi nhỏ đâu có tính trước chuyện gì, nhưng khi tôi cảm thấy không tiện ở lại thì tôi tự ý ra về và chưa bao giờ hiểu được cảm giác đó từ đâu đến để tôi có quyết định trái ý bạn bè, mang tiếng khó chịu.
Tôi ở đâu mà tôi đến đây | Ngày xưa ai đứng ở chỗ này | Hạt sương Trời khóc ngàn năm trước | Sao còn ướt trên lưng bàn tay (tmt)
Thành phố ven quốc lộ cách đó năm cây số, trong khách sạn nhỏ, Hồng chờ người yêu đến hẹn. Đã muộn gần một ngày. Từ hồi hộp sung sướng chuyển sang lo lắng nghi ngờ, giờ đây, thất vọng hoàn toàn xâm chiếm với cảm giác rủ liệt.Trước khi rời Sài Gòn, Dũng nhắn tin cho nàng, sau đó biệt tích. Không ai trả lời điện thoại. Hồng đã viết thư để lại cho Ali, giải thích sự ra đi. Vì mẹ, nàng lấy Ali, vì tình, nàng theo Dũng. Không thể quay trở về.
Mục đích duy nhất của chúng tôi muốn viết bài này, là chỉ để thuật lại và chia sẻ cho các độc giả đọc những lời tâm sự từ đáy lòng của ông bạn chí thân cao niên này của chúng tôi, về nỗi buồn đơn độc, đêm ngày ông ra vô căn nhà ở của ông, cũng chỉ thấy có một thân một mình ông thôi.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.