Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Ấm áp... những cơn mưa

25/02/202316:13:00(Xem: 3172)

Tùy bút

 

IMG_4797

Khác với những lần trước, chuyến qua Mỹ lần này, chúng tôi quyết định đi vào Mùa Giáng Sinh, đón Tết Tây, Tết Ta cùng đại gia đình và kết hợp thăm vài bạn bè, người quen. Và cũng vì dịp cuối năm mà chúng tôi may mắn nhận được nhiều lời mời gặp gỡ, họp mặt.

 

Ngày hôm ấy tôi có tiệc tại nhà một người quen tại Garland, Texas và sau đó là gặp gỡ mấy cô bạn xưa ở chung trại tỵ nạn Thailand. Chả hiểu sao, chiều hôm ấy trời lại mưa, mưa từ lúc trưa cho đến chiều tối cứ lai rai mãi. Lúc gặp hai cô bạn tại quán cà phê Starbucks, ngồi nhìn qua khung cửa kính, đêm Texas rét mướt một màu mờ tối, chúng tôi ôn lại một quãng đời tỵ nạn với những cơn mưa tha phương nhớ nhà, nhớ quê hương đến não ruột. Bây giờ may mắn định cư trên nước tự do, lại là nỗi nhớ dạt dào những cơn mưa ở trại tỵ nạn, một thời gian khó bên nhau, nhất là những chiều mưa thổn thức nhớ nhung “người ấy” vừa lên đường đi định cư và bài hát tiễn đưa của TCS: “Ngày mai anh đi biển nhớ tên anh gọi về...” rồi viết vội mấy vần thơ:

 

Ngày mai anh đi, đường chia hai lối

Trời đổ mưa như nước mắt em rơi

Anh nắm bàn tay em, không muốn rời

Mưa xứ Thái mang nỗi buồn da diết

 

Mưa ở nơi đâu thì cũng thế thôi, nhưng khác là lòng người, là hoàn cảnh là tâm trạng, nên buổi tối hội ngộ tại Starbucks tràn ngập tiếng cười vui, nhắc lại biết bao kỷ niệm dẫu có vài giây phút chạnh lòng nhớ những bạn bè khác.

 

Sau ngày Lễ Tết Tây, chúng tôi lên đường đi Houston. Đường đi nắng đẹp, gió hiu hiu, nhưng khi đến Rest Area thì trời bắt đầu chuyển qua âm u, mây đen kéo về giăng kín cả bầu trời. Đến Houston, vừa check in hotel xong thì ôi thôi, mưa hạt lớn hạt nhỏ rủ nhau trút xuống phố phường. Chúng tôi đến gặp một nhóm bạn cũ tại quán Long Café sau bữa ăn tối tại Kim Sơn. Bên ngoài tối thui khi khu Mall bắt đầu lên đèn, vừa bước vào quán Café bị các bạn tôi mắng vốn:

 

– Tại người Canada mang mưa gió lạnh lẽo qua đây, chớ Texas xưa nay đâu có mưa não nùng bao giờ.

 

– Úi trời ơi, oan cho tôi quá. Canada của tôi chỉ nổi tiếng với “đặc sản” lạnh và tuyết và tuyết, chớ mưa gió thì nơi nào mà chẳng có! Nắng mưa là bệnh của trời/ Cớ sao mấy người lại đổ thừa tôi?!”

 

Nói vậy thôi, các bạn mắng vốn là “mắng vốn yêu”. Ai mà nỡ làm thế khi mà mấy năm trời, (có người gần ba mươi năm), mới được gặp lại cô bạn yêu quý, từng chung nhau những ngày buồn vui thuở xưa (cùng có chút máu điên) chứ? Cho nên, dẫu ngoài kia có bão nổi, giông tố phong ba, hay núi lửa sóng thần, cũng chẳng cản nổi chúng tôi ngồi gần nhau, bên mấy ly café sữa nóng, râm ran những câu chuyện đời.

 

Khi tàn buổi họp mặt (cuộc vui nào rồi cũng tàn), vì ông xã và các con tôi đã về hotel từ trước, người được chọn đưa tôi về là cô bạn cũ, cùng xóm, cùng trường, cùng lớp và là… bà con bắn cà nông tám ngày chưa tới (ba của nó là anh họ của… anh rể tôi). Cô này nổi tiếng khi đi học bị cận thị nặng. Vậy mà cô nàng hớn hở xung phong lái xe trên xa lộ từ Bellaire đưa tôi về hotel dưới downtown. Mưa càng lúc càng nặng hạt, xa lộ rộng bốn năm làn xe lấp loáng ướt dưới ánh đèn cao áp, đường trơn trợt, hai cây gạt nước trên kiếng xe đảo qua đảo lại liên tục vẫn không xoá hết những vệt nước mưa lênh láng mịt mù. Cô nàng tíu tít vừa lái xe vừa nói chuyện, tôi cố gắng không nói nhiều để nó khỏi mất tập trung, mắt căng ra nhìn bảng đường phụ nó, tay trái tôi còn cầm cái iPhone cho nó nhìn Googles Map. Tôi hồi hộp, run rẩy, không dám nói ra (vì biết bệnh cận thị của nó quá mà, hồi đi học luôn luôn được ngồi bàn đầu). Nó vẫn hăng say nói cười, lái xe dù tôi nhắc đi nhắc lại phải chạy cẩn thận mà vẫn phải bị U-turn hai lần trong thành phố trước khi hoà vào freeway đông đúc. Tôi chỉ biết ngồi nghe nó nói, ậm ừ cho qua rồi âm thầm đọc kinh để giữ vững tinh thần đêm mưa gió bão bùng. Tạ ơn Chúa, cuối cùng nó cũng đưa tôi đến tận bãi đậu xe của hotel, mưa vẫn ào ào, nhưng nó vẫn cao hứng đề nghị ra sân chụp vài tấm hình “đưa em về dưới mưa” làm kỷ niệm và để bõ công nó diện đồ đẹp tối nay. Gì chứ mục này tôi ủng hộ ngay và luôn (thật không hổ danh hai nàng tuổi Ngựa, í lộn, tuổi Ngọ).

 

Buổi trưa hôm sau, tạm biệt Houston, gia đình chúng tôi trực chỉ New Orleans. Chưa đầy mười phút trên xa lộ, những hạt mưa đầu ngày đã rơi lộp bộp trên kính xe, trời lại vần vũ mây xám xịt. Càng tiến gần New Orleans thì mưa càng dữ dội, có lúc chúng tôi phải chạy thật chậm, như rùa bò vì không thể nhìn rõ phía trước dù chỉ vài mét. Vào cửa ngõ thành phố thì xui xẻo thay, vì có tai nạn xe cộ ở phía trước, đường chỉ còn đúng một làn vì đang sửa chữa nên cả hàng xe nối đuôi nhau chờ tại chỗ gần ba tiếng đồng hồ. Chạy đến French Quarter thì trời tối mịt, cả nhà mệt rã rời, vào nhận phòng hotel xong đi bộ đến nhà hàng gần nhất, ăn vội vàng bất cứ món gì trong menu, trở về hotel tắm rửa và ngủ một giấc ngon lành, không mộng mị.

 

Khi tỉnh dậy sáng hôm sau, việc đầu tiên là tôi mở cửa sổ xem có mưa hay không thì ông xã tôi đã nhanh nhẩu thông báo:

 

– Khỏi cần nhìn em ơi, mưa từ đêm qua vẫn chưa dứt.

 

– Trời đất, hổng lẽ mấy đứa bạn em nói đúng, là tụi mình mang tuyết từ Canada qua đây, gặp nhiệt độ ấm nên chuyển thành mưa?? Nhưng dù mưa hay không mưa, chúng ta vẫn phải ra đường, ngắm cảnh và chụp hình.

 

Nói là làm, chúng tôi mượn mấy cây dù tại hotel rồi kéo nhau qua các khu phố, vào các cửa tiệm tranh, hàng lưu niệm, tiệm sách cũ, và thích thú đứng dưới mưa nghe nhạc sống từ một quán bar giữa ban ngày. Trở về hotel sau bữa trưa muộn khá ngon tại một nhà hàng Việt, tôi lên chương trình tiếp theo:

 

– Chút nữa, tụi mình ra uống Café Du Monde nổi tiếng và ăn bánh nóng hổi beignets là tuyệt vời.

 

Chồng tôi bàn ra:

 

– Hay đợi đến chiều xem mưa có bớt không?

 

– Em đã xem dự báo thời tiết rồi, phải đến 7 giờ mới hết mưa, nghĩa là “sau cơn mưa trời lại… tối”, nên chúng mình vẫn cứ đi như dự định. Em cần phải ra nhìn sông Mississippi huyền thoại và chụp hình.

 

– Ối dào, mưa gió thế này ra sông thấy gì? Mà con sông này chảy qua cả chục tiểu bang, mình chờ dịp khác đến tiểu bang khác, có nắng đẹp, lúc đó tha hồ chụp hình khoe trên Facebook (ổng hiểu ý tôi luôn á).

 

– Không! Dứt khoát là không! Đã đến đây rồi là phải ra ngắm sông, dù là mưa. Mà chụp hình với cây dù bên sông cũng lãng mạn, phong trần lắm chứ.

 

– Mà anh thấy con sông nào cũng như con sông nào, về nhà ngắm sông Saskatchewan của Alberta mình cũng đẹp đó.

 

– Nói vậy mà nói được hà! Con sông Mississippi nổi tiếng dài nhất Bắc Mỹ, em đã tương tư nó từ lâu rồi, khi còn rất trẻ ở Việt Nam học trong sách English For Today, và nhớ có một bài hát của chính quyền Việt Cộng sau năm 1975 muốn làm nản lòng làn sóng vượt biên rầm rộ: “… Và dòng sông Mississippi, làm sao đưa em về nguồn, khi em đành lòng rời bỏ quê hương…”

 

Biết tính tôi cương quyết “biến ước mơ thành hiện thực”, sau khi uống Café Du Monde, trong làn mưa trắng xoá, hai vợ chồng kéo nhau ra bờ sông. Cây cầu xa xa ẩn hiện giữa màn nước và mây trời, mờ mờ ảo ảo, cũng “lung linh huyền diệu”. Tôi cầm dù đứng tạo dáng đủ kiểu bên sông, chồng tôi làm phó nhòm, cứ bấm lia lịa hơn cả chục tấm. Nhưng khi về hotel chỉ lựa được đúng một tấm, mà chưa dám post lên facebook vì tóc tai ướt nhẹp, dính bệt vào nhau, mặt mũi nhợt nhạt, phấn son tè le (nguyên văn lời ông xã tôi), chắc tôi chỉ giữ kín trong album làm kỷ niệm với con sông.

 

Đó là cơn mưa cuối cùng của chuyến đi, vì sau đó, nắng vàng rực rỡ suốt đường về Arlington, Texas và cho đến khi chúng tôi trở về Canada.

 

Quả thật, gia đình tôi đã Mỹ du nhiều chuyến, nhưng có lẽ chưa có chuyến nào lại gặp mưa nhiều như thế. Khi tôi ngồi viết những dòng chữ này, thì Canada đang vào đỉnh điểm của mùa đông băng giá, thành phố của tôi tái tê với nhiệt độ âm 32 độ C (tức là âm 25 độ F, hình như lạnh hơn cả Bắc Cực). Tôi bỗng thấy thèm, thấy nhớ những cơn mưa mát lạnh nơi đất Mỹ vừa qua, những cơn mưa kỷ niệm và ấm áp.

 

Kim Loan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
1)Tưởng niệm MC Phạm Phú Nam 2)Nhớ về cuộc di cư 1954. 3)Chiếu Phim Sài gòn trước 75 4)Chào đón minh tinh Kiều Chinh đến San Jose. Chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7 năm 2024 vừa qua chúng tôi đã có dịp nhân danh Viet Museum kịp thời trả những món nợ cho lịch sử. Số là anh chị em chúng tôi vẫn còn nhớ về chuyến di cư 1 triệu người từ Bắc vào Nam 70 năm xưa.
Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-1924 tại Paris. Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm, từ Việt Nam đến Paris. Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964). Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.
Khi lần đầu tiên gặp một họa sĩ, tôi thường có khuynh hướng tìm vài nét tương đồng để liên tưởng đến một họa sĩ nổi tiếng nào đó thuộc những thế hệ trước. Với Nguyễn Trọng Khôi, tôi cũng làm như vậy nhưng trừ vài nét chung chung như được đào tạo ở trường ốc hay năng khiếu, tôi không tìm được gì đậc biệt. Nguyễn Trọng Khôi (NTK) không giống một họa sĩ nào khác.
Hồ Hữu Thủ cùng với Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung của Hội Họa sĩ Trẻ trước 1975 còn sót lại ở Sài Gòn, họ vẫn sung sức lao động nghệ thuật và tranh của họ vẫn thuộc loại đẳng cấp để sưu tập. Họ thuộc về một thế hệ vàng của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bất kể ở Mỹ như Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường… hay còn lại trong nước, còn sống hay đã chết, tranh của nhóm Hội Họa sĩ Trẻ vẫn có những giá trị mang dấu ấn lịch sử. Cho dù tranh của họ rất ít tính thời sự, nhưng cái đẹp được tìm thấy trong tác phẩm của họ lại rất biểu trưng cho tính thời đại mà họ sống. Đó là cái đẹp phía sau của chết chóc, của chiến tranh. Cái đẹp của hòa bình, của sự chan hòa trong vũ trụ. Cái mà con người ngưỡng vọng như ý nghĩa nhân sinh.
Westminster, CA – Học Khu Westminster hân hoan tổ chức mừng lễ tốt nghiệp của các học sinh đầu tiên trong chương trình Song Ngữ Tiếng Việt (VDLI) tiên phong của học khu. Đây là khóa học sinh đầu tiên ra trường và các em sẽ được ghi nhận tại buổi lễ tốt nghiệp đặc biệt được tổ chức vào thứ Ba, ngày 28 tháng Năm, lúc 6:00 giờ chiều tại phòng Gymnasium của Trường Trung Cấp Warner (14171 Newland St, Westminster, CA 92683).
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.