Hôm nay,  

Loạn bút về Thanh Nam

03/06/201914:24:00(Xem: 3287)
Loạn bút về Thanh Nam
 
Nguyễn Văn Sâm

 


blank

      

Nhà văn Thanh Nam hoàn tất hành trình trên con đường văn nghệ hơn ba mươi năm trời. Thời gian đủ xây dựng một số công trình và tiếng tăm trong văn giới và độc giả. Trong ba mươi năm nhập cuộc với ông chỉ có văn nghệ. Những hoạt động khác đều trở nên thứ yếu. Văn nghệ là cuộc sống, là cuộc đời của Thanh Nam. Văn nghệ, khu rừng ông đến, thưởng thức, trồng thêm cây và cất nhà ở đó, khác với một số đông ghé qua, thoáng qua một cái nhìn rồi trở về nhà riêng, lâu lâu trở lại để có mặt nhưng sự ràng buộc thật là lỏng lẻo…

Trong nhịp sáng tác, Thanh Nam từ từ đi, không vội vàng, không chểnh mảng, tác phẩm xuất hiện không ào ạt, nhưng gần như năm nào cũng có. Con đường viết riêng, không thắc mắc khó khăn (Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Đặng Phùng Quân, Võ Phiến…) cũng không lè tè dễ dãi (Ngọc Linh, An Khê, Lê Xuyên). Thái độ trung dung của ông – hay nhu cầu đề ra của các chủ báo khiến Thanh Nam không vượt lên được trên số ít oi những cây viết nổi bật của giai đoạn Việt Nam Cộng Hòa.

Nói chung ông không có tác phẩm lớn làm đổi bước đi của lịch sử văn học hay đánh dấu một đoạn đường đặc biệt nào đó trong tiến trình văn chương Việt. Ông chỉ để lại một vài vết tích nho nhỏ trên con sông văn chương Việt bát ngát mà ai từng đi dọc dòng sông đó cũng đều nhận ra ngay. Đó không là những thác cao, những cù lao lớn, những hòn đảo dài, những mảng đất bao la chẻ sông ra làm hai, làm ba, làm chín. Đó chỉ là vài mũi đất, cái doi, cái vịnh, nhưng nó có và người ta nhận ngay ra những doi vịnh Thanh Nam.

Tôi không muốn đặt vấn đề địa vị nhà văn cao thấp ở đây. Sự đánh giá bất kỳ nhà văn nào cũng đều không tránh khỏi được sự chủ quan của người đánh giá, và trong tình trạng đặc biệt của việc viết lách hải ngoại, sự xếp đặt vị trí này nọ là chuyện khôi hài không cười. Điều quan trọng là tác giả có đóng góp hay không vào kho tàng văn chương Việt. Với thời gian, mỗi người một vài tác phẩm, dân tộc chúng ta tạo dựng được nền văn học riêng. Chiếu trên, chiếu dưới, đỉnh cao, ngọn núi chỉ là những lời trơ trẽn, chỉ có giá trị rao hàng. Vì vậy tôi chỉ muốn nhân dịp này phóng bút nói những điều gọi là đặc điểm văn chương của Thanh Nam.

Cách đây một phần tư thế kỷ (thập niên 60 của thế kỷ 20), trong một bài viết cho tờ báo sinh viên của trường, tờ Văn Khoa (hay Đối Thoại?) do anh Phạm Trường Thiên, con trai ông chủ nhà sách Việt Hương trên đường Bonard, anh chủ trương, viết về tình hình văn chương Việt Nam trong năm 1961 tôi có nhắc đến sự thành công của Thanh Nam trong “Buồn Ga Nhỏ” sau khi nhận xét rằng “Người Viễn Khách Thứ Mười” của Nghiêm Xuân Hồng cũng xuất hiện năm đó là tác phẩm trội nhất trong năm.

Với tôi lúc đó Buồn Ga Nhỏ đặc biệt đã nói lên được một tâm trạng, một mối tình. Tâm trạng thiếu phụ chấp nhận đời mình đứng lại như một sân ga. Người đến, người đi,  tàu dừng, tàu chạy, riêng mình ở lại chờ sự tàn phá của thời gian, không ai buồn chú ý. Vì sao? – Hoàn cảnh. Một người chồng già, tầm thường, không học nhiều, không có một điểm nhỏ điều kiện nào để vươn lên. Tâm trạng đó lại đau đớn hơn, lại được làm cho sắc nét hơn khi người xưa, thời cô chưa lập gia đình, trở lại, hé cho thấy một mối tình, một sự tiếc rẻ. Văn trong truyện thật đơn sơ, sự kiện mô tả thật giản dị nhưng hình ảnh đã tạo được xúc động trong tôi lúc đó, đến giờ đọc lại vẫn còn cảm giác, ấn tượng tương tợ.

Tôi ưa đặt vấn đề phía sau của tác phẩm? Tôi muốn truyện ngắn phải chuyên chở một nội dung? Tôi để lòng mình trôi theo thân phận của nhân vật? Không rõ. Chỉ biết Buồn Ga Nhỏ đã đem đến cho tôi trạng thái lâng lâng, cái lâng lâng kéo dài hơn hai mươi lăm năm và chắc chắn sẽ còn kéo dài nữa sau  này nếu có dịp đọc lại.

Về sau Vai Phụ cũng gảy vào cung bậc đó trong tôi. Thân phận kẻ không tên bất hạnh trong cuộc đời, sẵn sàng đem tấm lòng mình, tài năng mình dàn trải ra cho người đời nhưng không ai nhận, người đời chỉ đi theo những bóng đèn sáng đã được chấp nhận, ngoảnh mặt lại với những tài năng  mới mà vì hoàn cảnh chưa có khả năng phát huy. Truyện viết ra từ năm 1959 nhưng sau này tôi mới được đọc và tự hỏi nếu trước đây được đọc,  tôi có chăng sự xúc cảm đó về số phận của “con người bất hạnh cô đơn”, một con người luôn luôn đứng trong bóng tối, luôn luôn giữ “Vai Phụ”?

Thanh Nam chỉ đến với tôi bằng hai truyện ngắn đó (Nhiều nhà văn khác cũng ảnh hưởng lên tâm hồn tôi bằng một vài truyện ngắn mà thôi. Bình Nguyên Lộc: Lò Chén Chòm Sao, Nhốt Gió, Ba Con Cáo, Rừng Mắm; Hồ Hữu Tường: Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp; Thạch Lam: Sợi Tóc. Phạm Duy Tốn: Câu Chuyện Một Tối Tân Hôn…Nhiều người chỉ là một câu ngắn: Thanh Tịnh: Ngày Khai Trường…) Hai truyện, quá ít nhưng đủ để tôi thấy Thanh Nam có đủ khả năng đặt vấn đề thân phận con người bị lọt vào trong hoàn cảnh hẩm hiu. Các truyện dài của Thanh Nam trái lại qua lòng tôi không để lại dấu vết, đi qua như những bữa cơm bình thường hằng ngày, về sau có nhớ cũng không thể nói cảm nghĩ mình bữa đó.

Có lẽ vì văn trong truyện dài của Thanh Nam, kỹ thuật dựng truyện của ông và không khí trong truyện tương tợ với bạn bè ông lúc đó: Văn Quang, Hoàng Hải Thủy… (và cả Viên Linh?)

Tôi chỉ nhớ Thanh Nam có vài bài thơ rải rác đó đây. Những bài thơ tình, đủ để gọi là thi sĩ nhưng chưa vượt lên được trên đỉnh cao nghệ thuật, với những bản sắc riêng như Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Vũ Hoàng Chương, hay đặc biệt như Trần Dạ Từ, Nguyễn Đức Sơn, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư.

Trong dịp ra mắt tập thơ của Thanh Nam (do Mai Thảo đại diện) cùng với tập truyện Tan Theo Ngày Nắng Vội của Du Tử Lê ở Houston hai năm trước đây, được mời phát biểu trước độc giả, tôi đã nói đại khái Đất Khách là tâm trạng của chúng ta, những người ly hương suốt đời hoài vọng về khung trời cũ, suốt đời cảm nhận chúng ta đã đánh mất quê hương. Ở xứ người đầu thành công hay thất bại một cảm thức đau đớn cũng luôn dày xéo hồn ta, nhắc nhở rằng ta đang ở ngoài quê hương, ở trọ, sống nhờ, ghé chơi, và ước mong được trở về quê cũ,  một quê cũ nghìn trùng xa  mà  trong sâu thảm của tâm thức, ta lờ mờ thấy rằng khó đạt…
 

Cũng đáng cho ta đọc  vài câu trong bài thơ  đầy ê chề với nỗi lê thê buồn của người lạc loài nơi Đất Khách:

Tờ lịch đầu năm rớt hững hờ,

Mới hay năm tháng đã thay mùa.

Ra đi từ thuở làm ly khách,

Sầu xứ hai xuân chẳng đợi chờ.

Trôi giạt từ Đông sang cõi Bắc.

Hành trình trơ một gánh ưu tư.

Quê người nghĩ xót thân lưu lạc.

Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du.
 

Thanh Nam với bài thơ thôi, với vài hình ảnh thật gợi xúc động đã giúp ta kéo dài thời gian trở về ngày cũ, đem không gian nghìn trùng của quê nhà về cho ta nơi Đất Khách. Ông sống với quá khứ, với Saigon, ông phủ nhận thời gian và không gian bây giờ, ông diễn tả hộ ta tâm sự tư cố hương, ông trình bày với đời hoài cảm vọng minh nguyệt giùm cho thế hệ ly hương thứ nhất bằng những từ ngữ chững chạc, đứng đắn, với một thái độ thật trầm tĩnh, nghiêm túc, rất phù hợp với thơ.

Những ngày đánh vật với bệnh trạng ở Seattle, Thanh Nam vẫn thiết tha cùng văn nghệ như thuở nào. Ông viết hồi ký. Ông kể những kỷ niệm về nhà văn kháng chiến chống Pháp của giai đoạn 45-50, ông nói về Lý Văn Sâm, về Vũ Anh Khanh… Hình như ông đã lờ mờ muốn đặt vấn đề đem đến một sự công bằng cho những nhà văn không may viết và sống trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt về chính trị và văn học này. Ở phạm vi bài này tôi không thể đi sâu vào vấn đề đó. Đại khái các nhà văn kháng chiến chống Pháp đã bị người CS loại ra khỏi các cuốn sách viết về văn học đấu tranh mà họ gọi là văn học cách mạng Việt Nam vì những người nầy không được chỉ thị khi viết mà tự động viết từ một ý thức tự phát. Trong khi đó sách vở miền Nam cũng rất ít nói đến, do sự thiếu thốn tài liệu và ngại ngùng những hiểu lầm tai hại từ những người ít biết về động lực cơ bản của văn học thời đặc biệt của giai đoạn. Trong suốt hai chục năm của nền Cộng Hòa, chúng ta chỉ có hai người viết về vấn đề nầy là Thế Phong và Nguyễn Văn Sâm. Qua thời gian vấn đề tài liệu càng trầm trọng hơn và nếu tình trạng này kéo dài, vài mươi năm nữa chắc sẽ không ai biết gì về những người đã đánh Pháp bằng ngòi bút, bằng suy luận, bằng tư tưởng như Hồ Hữu Tường, Thẩm Thệ Hà (đã mất), Sơn Khanh, Thê Húc (hiện ở một tiểu bang miền Bắc), Nguyễn Đạt Thịnh (ở Hawaii). Đặng Thị Thanh Phương (tức nhà văn nữ Thanh Phương ở Pháp) và CS sẽ mặc tình nói rằng lúc đó chỉ có những nhà văn CS mới dám đặt vấn đề chống thực dân Pháp, chỉ có nhà văn CS mới yêu nước!
 

Sẵn đây cũng nên nói thêm để chứng tỏ sự trầm trọng của vấn đề tài liệu.

1. Bài phỏng vấn nhà văn Xuân Vũ của Nguyễn Mộng Giác đăng trên Văn Học số 4 ngày 5/86, Xuân Vũ có câu “Vũ Anh Khanh của Nửa Bồ Xương Khô, Trắc Bá Diệp và những bài thơ nổi tiếng khác…” Thật ra Vũ Anh Khanh không có viết bài thơ nào tên Trắc Bá Diệp, Nửa Bồ Xương Khô là tên truyện dài trong đó, ở quyển 2, Vũ Anh Khanh đã vụng về tuyên truyền cho chế độ CS – Sau này ông đã trả cái giá sai lầm của mình bằng cái chết khi toan vượt sông Bến Hải vào năm 1957 – và Cây Ná Trắc (không phải Trắc Bá Diệp) là tên tập truyện ngắn ca tụng Kháng chiến không có một chút hơi hướm nào của CS trong đó. Cũng nên nhắc lại Vũ Anh Khanh đã cống hiến cho chúng ta bài thơ Tha La (đã được phổ nhạc từ lâu) nổi tiếng như Màu Tím Hoa Sim hay Đôi Mắt Người Sơn Tây ở Bắc cùng giai đoạn.

2. Báo Làng Văn số tháng 5/86 trong bài phỏng vấn Cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc, tức nhà văn Sơn Khanh người phỏng vấn cho biết Sơn Khanh có viết cuốn Toàn Binh (1950). Thật ra Tàn Binh (không phải Toàn Binh) là một cuốn tiểu thuyết rất  khá của Sơn Khanh diễn tả tâm trạng của một người vì hoàn cảnh, bỏ chiến đấu trở về thành nhưng không lúc nào nguôi được mặc cảm đã không làm tròn bổn phận với tổ quốc…

Trở về chuyện Thanh Nam, điều làm tôi chú ý và suy nghĩ, đó là tình thương vô bờ của đa số bạn văn đối với ông. Khi ông nằm xuống, rất nhiều người viết về ông, về tình bạn, về kỷ niệm, về lòng mến tiếc. Mới đây bài của Phan Lạc Tiếp cũng rất xúc động, mấy câu thơ của Vĩnh Lộc (Quãng đường tri kỷ thoáng qua. Trạm buồn ga nhỏ còn ta ngậm ngùi) cũng rất…ngậm ngùi. Tại sao? Không hẳn chỉ vì Thanh Nam đã cầm bút. Hồng Liên Lê Xuân Giáo mới mất, Xuân Hiến đã từ trần sao không được một sự bày tỏ thân tình rộng rãi như vậy?
 

Phải chăng nhờ một thứ tình bằng hữu tốt đẹp như Thanh Nam đối với bạn bè văn giới? Phải chăng vì tư cách của ông trong  suốt cuộc đời? Phải chăng vì tính phóng khoáng của nhà thơ, khi đánh canh bạc đời?

Chỉ có thể giải thích và đưa ra lời đáp từ các thân hữu của Thanh Nam, kẻ viết bài này rất tiếc trong suốt đời mình chưa bao giờ được hân hạnh gặp ông. Đó là một sự thiệt thòi, một điều quá uổng bởi vì được gặp, được tiếp chuyện với nhà văn mà tác phẩm của họ đã tạo được ấn tượng sâu đậm trong lòng mình lúc còn trẻ là một điều rất đáng thú vị.

Biết đâu được sự gặp gỡ đó tôi đã có thể thêm vào bài loạn bút này vài dật sử về ông để  đỡ nhạt.

Nguyễn văn Sâm
(Viết vài tháng sau ngày Thanh Nam từ trần)

 



 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.