Hôm nay,  

Tự Điển Cao Đài - Phần 2

03/04/201700:04:00(Xem: 5329)

Tự Điển Cao Đài
Hiền Tài Quách Văn Hòa
Phần 2

Từ BÁ THIÊN VẠN KIẾP NAN TAO NGỘ tới BẨM


   

BÁ THIÊN VẠN KIẾP NAN TAO NGỘ

百 千 萬 刼 難 遭 遇

        Bá thiên vạn kiếp: Trăm ngàn muôn kiếp. Nan tao ngộ: Khó gặp gỡ nhau.

        Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ có nghĩa là trăm ngàn muôn kiếp rất khó khăn mới gặp đặng Đức Phật.

        Thật vậy, con người trong vòng luân hồi sinh tử, dù trải qua trăm ngàn muôn kiếp mà không có duyên phần thì cũng khó mà gặp đặng Đức Phật ra đời.

        Trong kinh Pháp Cú Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật có dạy như sau: “Được sinh làm người là khó, được sống còn là khó, được nghe chánh pháp là khó, được gặp Phật ra đời lại càng  khó hơn”.

         Cổ nhân cũng thường nói rằng: Hữu duyên thiên lý năng tao ngộ, Vô duyên đối diện bất tương phùng 有 緣 千 里 能 遭 遇, 無 緣 對 面 不 相 逢. Nghĩa là có duyên phần thì dù xa ngàn dặm cũng có thể thấy nhau, không duyên phần dù đối mặt nhau cũng khó gặp gỡ.

        Ở đây, chúng sanh luân hồi trong nhiều kiếp và trải qua nhiều ngươn hội, từ Thượng ngươn, đến Trung ngươn, rồi nay đến Hạ ngươn hầu mãn, lại may duyên lắm mới được gặp thời kỳ Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, vì thương sanh chúng, mà giáng cơ khai nền Đại Đạo, như lời Thánh giáo dạy: “Đạo Trời dìu bước nhơn sanh, đường Thánh dẫn người phàm tục. Sanh nhằm lối may mắn đặng gặp một Đạo Chánh, nếu chẳng lo dưỡng tánh trau mình, để bước vào đường Cực Lạc, thoát đọa Tam Đồ, một mai cảnh ủ bông tàn, rốt lại ăn năn vô ích”.

      Đức Lý Giáo Tông cũng có dạy như sau: “Mở một mối đạo chẳng phải là sự thường tình, mà sanh nhằm đời đặng gặp một mối đạo cũng chẳng phải dễ”.

Chúng ta muốn thoát lìa sinh tử, lại may duyên được sinh ra kiếp con người, đặc biệt lại gặp được thời Tam Kỳ Phổ Độ, Chí Tôn Đại Ân xá, khai nền Đại Đạo mở cơ tận độ cho toàn thể chúng sanh chung hưởng.

        Người ta thường nói: “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn 人 身 難 得, 佛 法 難 聞”, nghĩa là thân người khó được, pháp Phật khó nghe. Thế mà hôm nay chúng ta đều có được cả, đó là nhờ vô lượng kiếp chúng ta tu hành, lập nhiều phước đức để tạo được duyên phần trong kiếp hôm nay.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Thầy lấy đức háo sanh mở Đạo lần ba mà vớt kẻ hữu phần, tránh khỏi nơi buộc ràng khổ phạt. Ai hữu phước đặng để chân vào, kẻ vô phần phải bị tà yêu cám dỗ”.

         Chính Thanh Tâm Tài Nữ, theo lời thuật lại của Chức sắc tiền bối thì Cô là một vị Nữ Tiên, có đầu kiếp tại Việt Nam, nhưng Cô mất sớm lúc 18 tuổi do chết đuối nơi bãi biển Vũng Tàu. Cô được lịnh Đức Phật Mẫu, hiệp cùng Cửu Vị Tiên Nương, giáng cơ dạy Đạo.

        Cô cho rằng những người sinh vào thời Tam Kỳ Phổ Độ nầy là có duyên phần, gặp được Đức Chí Tôn giáng huyền cơ mở Đạo Cao Đài, nhứt là được thọ truyền bí tích của nền Đại Đạo, và được hưởng đại ân xá kỳ ba nầy. Nên Cô khuyên hãy cố gắng lập công bồi đức để sau nầy về hội hiệp cùng Thầy.

        Trong một Đàn cơ lúc 21 giờ đêm ngày 12 tháng 1 năm Quí Dậu (dl 6-2-1933), giáng dạy như sau:

        Em đã nói trước với quý anh rồi, có lạ chi dòng luân luân chuyển chuyển mà da díu bận lòng. Em đến giúp nên cơ Đạo đặng báo nghĩa cho Chí Tôn.

        Em nghe Chí Tôn nơi nầy, chạy theo nơi nầy không gặp. Em nghe nói nơi khác, chạy nơi khác, cũng không gặp.

        Hỏi ra thì em khiếm khổ hạnh nên khó phép thấy Người, nên quyết luân hồi chịu khổ hạnh hầu gặp cho đặng, kẻo ức. Thương quá đỗi thương mà chưa từng thấy mặt.

        Thưa mấy chị,

        Đã may duyên gần gũi hình bóng của Người, ráng đặng gặp Người, kẻo sau ăn năn uổng lắm!

        Cái oan nghiệt kiếp sanh đáng ghê sợ chưa bằng không gặp mặt Chí Tôn, vì lẽ ấy mà biết bao nhiêu Tiên, Phật hạ trần chịu khổ. Xin mấy chị nghe:

        “Phải đủ căn sanh mới thấy Trời, Ai ai đừng tưởng dễ như chơi. Nghe danh như chất chồng bên gối, Cổ Phật không duyên khó gặp Người”.

                     Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,

                     Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.

                                                (Di Lạc Chơn Kinh).

BÁ VƠ

        Bá vơ là không đúng, không chứng cứ, không có nguồn gốc.

        Bá vơ còn có nghĩa là không vào đâu cả, không đúng, không phù hợp với yêu cầu, tính chất nội dung vụ việc.

        Thánh giáo Đức chí tôn có dạy: Cũng như các con bề trong cấu xé, tâm một nơi đức một ngả, mà ham đi dìu dắt người ngoài, biểu hiệp đồng sao được. Trong chưa thành, ngoài dầu có làm chi cũng chuyện bá vơ thêm hại.

                     Lại đây Ta hỏi hết lòng thờ,

                     Hay đến cầu xin hỏi bá vơ.

                                                (Đạo Sử).

BÁ VƯƠNG 霸 王

        : Nước lớn nhứt trong các nước chư Hầu. Vương: Vua, cai trị cả thiên hạ.

        1.- Bá Vương, như chữ “Vương Bá”, là hai cách cai trị dân của người xưa. Nghiệp Bá thường lấy sức mạnh để củng cố uy quyền, như các chư hầu, còn Vương dùng nhân nghĩa để cai trị, như các vua Hạ Võ, Thương Thang, Văn vương…

                     Thạnh trị bá vương toan ngảnh mặt,

                     Khuynh nguy dân chúng thảy oằn vai.

                                                (Thơ Cao Mỹ Ngọc).

        2.- Bá Vương, còn là một xưng hiệu của Hạng Võ nước Sở, nên thường gọi là Sở Bá Vương Hạng Võ.

                    Bá Vương mãi giữ tánh ngang tàng,

                     Chẳng khứng nghe lời Phạm gián can.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

BÁ XÀM

        Xàm: Nói nhảm, nói không thiết thực, không ích lợi cho người nghe.

        Bá xàm là chuyện tầm bậy, không xác thực, nhảm nhí, thiếu căn cứ, không ích lợi gì.

        Thí dụ: Anh ta nói chuyện bá xàm mà mầy cũng nghe và tin được à?

                     Công là hay học chuyện bá xàm,

                     Trăm bánh trái, bao hàm nhà cửa.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        1.- Bà là người đàn bà thuộc thế hệ sinh ra cha hay mẹ mình, hoặc nói chung sinh ra ông bà mình.

        Như: Bà nội, bà ngoại, ông bà tổ tiên.

                     Lòng thành thương tưởng ông ,

                     Nước nguồn cây cội mới là tu my.

                                                (Kinh Sám Hối).

Ông cha mẹ đương còn,

Phải lo báo đáp cho tròn hiếu trung.

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo).

        2.- Bà là tiếng gọi chung người vợ, trái với ông là gọi người chồng.

        Như: Của ông công bà, ông ăn chả bà ăn nem.

Hễ là vào đạo vợ chồng,

Hư nên đều có của ông công .

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                        Rủi để bước cửa công là khó,

                        Phần nhiều xem dễ khó tại nơi .

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        3.- Bà là tiếng gọi chung những người đàn bà Thần Thánh anh linh, hoặc những người có phẩm vị, đạo đức, đáng được tôn kính.

        Như: Bà Thiên Hậu, Bà Chúa Xứ, Chín Bà (tức Cửu Vị Tiên Nương Diêu Trì Cung).

                     Thu cúc hứng sương khách kiếm mùi,

                     Chín cùng Mẹ đến chung vui.

                                                (Đạo Sử).

BÀ CHẰN

        : Chỉ người đàn bà lớn tuổi. Chằn: Một loài yêu quái trong truyện cổ tích.

        1.- Bà chằn là chằn tinh, một loại yêu quái trong truyện cổ tích thường nói đến.

        Như: Bà chằn trong Thạch Sanh Lý Thông là một loài yêu quái.

                     Hễ trừ yêu thì triệu bà chằn,

                     Trị chồng dữ băng hăng méc mẹ.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bà chằn còn có nghĩa là người đàn bà hung dữ, độc ác và tâm địa xấu xa.

        Bà chằn còn dùng để chỉ kẻ có gương mặt lem luốc, xấu xí. Như: Bà ấy là mụ bà chằn.

                     Dung chớ lấn chồng làm mụ chị,

                     Hạnh đừng hiếp trẻ giống bà chằn.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

BÀ NGUYỆT

        : Tiếng gọi chung những người đàn bà Thần Thánh anh linh. Nguyệt: Mặt trăng.

        Bà Nguyệt, do chữ “Ông tơ Bà nguyệt”, dùng để chỉ vị Thần có nhiệm vụ kết hợp việc hôn nhân.

                     Ông tơ bà nguyệt khéo xe duyên,

                     Buộc chặt hai người nặng kiếp khiên.

                                                (Thơ Thiên Vân).

BẢ

        1.- Bả là hỗn hợp thức ăn với thuốc độc dùng làm mồi để lừa giết thú vật nhỏ. Như: Bả chuột, bả chó.

        Bả, nghĩa bóng dùng để nói vật gì có thể đánh lừa, cám dỗ hoặc lôi kéo vào chỗ nguy hiểm, xấu xa, hư hỏng. Như: Bả vinh hoa, bả lợi danh, bả công khanh.

        Thánh giáo Thầy có câu: Xôn xao gió bụi, mờ mệt tuồng đời, mồi phú quý bả công khanh, mấy kẻ biết nhuộm nét nâu sồng, lánh cả muôn sự não phiền mà khách trần đều gọi là vinh diệu.

                     Hứng giọt nhành dương lau tục lự,

                     Hay chi thua được bả công khanh.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Mùi chua ngọt bả sang hèn,

                     Đời chác một điều vụ tiếng khen.

                                                (Đạo Sử).

        2.- Bả còn có nghĩa là sợi xe bằng tơ, gai, dùng để may áo, buộc điều, đan lưới. Như: Áo bả hài gai, đánh bả.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Đời chuộng sang vinh, Đạo chuộng khổ hạnh, Đời ham trược phú, Đạo giữ thanh bần, lên xe xuống ngựa chốn phồn hoa là cảnh áo bả hài gai nơi tịnh xá, tương dưa thanh đạm chốn thiền môn, để mặc miếng mỹ vị cao lương ngoài quán tục.

                     Để cho con đặng tấm thân lành.

                     Chẳng kể già áo bả quần manh,

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        3.- Bả còn là tiếng dùng để chỉ bà ấy.

        Như: Mẹ anh ấy đang ở nhà, bả là người rất hiền hậu, Vợ tôi đi chợ, chút xíu bả sẽ về.

                     Chồng đố dám một lời nạnh hẹ,

                     Chọc bà già bả chưởi mẹ cha.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Sợ bả gan chưởi tới ông bà,

                     Lấy trớn chưởi cả nhà ông vải.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẢ VINH HOA

        Hay “Bả vinh huê”.

        Bả: Chỉ cái có sức cám dỗ, hay lừa người ta rơi vào nơi xấu xa nguy hiểm.

        Vinh hoa (vinh huê): Vẻ vang đẹp đẽ.

        Bả vinh hoa hay “Bả vinh huê”, là tiếng dùng để chỉ món mồi giàu sang vinh hiển.

        Thánh Giáo Đức Chí Tôn có dạy: Mùi chung đỉnh, bả vinh hoa có khác chi ngọn cỏ phơi sương, vừng mây giữa gió. Nét hạnh đức là phương hay để dìu dắt các con bước lên con đường Cực Lạc, tránh khỏi đọa tam đồ.

        1.- Bả vinh hoa:

                     Hùng suy đã lắm thảm buồn vui,

                     Cái bả vinh hoa hưởng đủ mùi.

                                                (Đạo Sử).

        2.- Bả vinh huê:

                     Cái bả vinh huê đời rối rắm,

                     Nguồn đào thong thả đã là đâu ?

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

        Bã là nói vật gì đã lấy hết nước cốt chỉ còn lại phần xác khô. Như: Bã mía, bã trầu, bã chè, cặn bã.

        Bã, nghĩa rộng dùng để chỉ cái cách khô khan, nhạt nhẽo, rời rạc. Như: Người bã, miệng bã.

                     Lời khen miệng thế quý chi đâu,

                     Bất quá như son lộn trầu.

                                                (Đạo Sử).

BẠ

        Bạ có nghĩa gặp là bậy, làm không chọn lựa, không cân nhắc kỹ là nên hay chẳng nên làm.

        Như: Bạ đâu ngồi đấy, bạ việc gì cũng bắt chước, bạ đâu nói đó, bạ đâu nằm đó.

                     Phàm quý lạ thì là trọng giá,

                     Vì cớ nào ném bạ bỏ thừa.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÁC

        1.- Bác là anh của cha hoặc chị dâu của cha.

        Như: Bác gái, ông nầy là bác ruột, người nầy là bà bác họ, con chú con bác.

Thuận cùng chú bác cậu cô,

Bà con chòm xóm ra vô khiêm nhường.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Cô bác gái mất ăn xúm chưởi,

                     Bị khô mồm miệng lưỡi đều khua.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bác là tiếng gọi người dưng, ngang vai hay bạn thân, hoặc người là một nghề gì.

        Như: Tôi và bác đồng tuổi nhau, bác nông phu, phu xa, bác kỹ sư.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Thử hỏi nếu bác nông phu, người thợ dệt vải, kẻ trồng rẩy, nhà kỹ nghệ, giới thợ thuyền đều ngưng hẳn hoạt động thì đồng tiền của ta còn có ích gì cho ta nữa không, và đời sống của ta sẽ ra thế nào?

                     Đào non liễu thắm thuyền êm bến,

                     Cá nước duyên lành bác tặng thi.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

        3.- Bác 駮 là không ưng, không y, bỏ đi, bắt bẻ.

        Như: Ngọc Hư cung bác luật, bộ hình bác cái án của tỉnh đã xử, bác bỏ điều đã biểu quyết, bài bác.

        Thánh giáo Thầy có câu: Than ôi! Điều vui sướng lao trần chẳng ai buộc mà nhiều kẻ tìm tới, mối đạo đức trau thân là phương châm thoát tục mà lắm kẻ trốn lánh, bài bác mối Đạo Trời, khua môi uốn lưỡi, mà tưởng cho mình hơn đặng các phẩm nhơn sanh, chớ chẳng dè là một hình phạt rất nặng nề đã chực chúng nó nơi chốn A Tỳ.

Nhưng có một điều là Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ, nên tu nhiều mà thành ít.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

        4.- Bác 博 là rộng, không dùng một mình. Như: Bác ái, uyên bác, bác lãm quần thi, nhà bác học.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Một người thì đem tài bách chiến và khí phách anh hùng để phò vua vực nước, một người thì dụng văn chương bác lãm để giúp cho nước trị dân an, hai Đấng ấy chẳng phải vì tu hành mà chỉ nhờ nơi tâm chí cao siêu nên thủ đắc Thiên vị.

                     Tính cha đã thông minh mẫn đạt,

                     Con chắc là bác lãm quần thi.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        5.- Bác 博 là cờ bạc, đánh bạc. Như: Đổ bác.

        Xem: Đổ bác.

                     Trường đổ bác cũng đừng léo tới,

                     Phường trăng hoa hát bội khá từ.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Vui nơi đổ bác là vui khổ,

                     Vui thói tà gian lụy trọn đời.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BÁC ÁI 博 愛

        Bác: Rộng rãi. Ái: Yêu thương.

        Bác ái là tình yêu trải rộng không những đối với bà con thân thích mà với cả mọi người.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình. Cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông, mà coi thiên hạ trọng bằng Trời Đất.

                     Câu tư dục biến ra bác ái,

                     Nghiệp oan khiên đổi lại hồng ân.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     Sửa bác ái ra nên câu kệ,

                     Chế từ bi như thể bài kinh.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BÁC LÃM 博 覽

        Bác: Rộng rãi. Lãm: Xem.

        Bác lãm, đồng nghĩa với “Triển lãm 展 覽”, là cuộc trưng bày các thứ nông sản, hoá phẩm và hoặc các thứ đồ về công kỹ nghệ để công chúng xem.

        Bác lãm quần thi (Thư) 博 覽 群 書 là chỉ người tài giỏi đã hết xem các loại kinh sách.

                     Tính cha đã thông minh mẫn đạt,

                     Con chắc là bác lãm quần thi.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÁC LUẬT 駁 律

        Bác: Không chấp nhận. Luật: Luật lệ.

        Bác luật là bác bỏ luật pháp đã cũ kỹ thời xưa vì không còn thích hợp.

        Thánh giáo Đức Chí tôn có câu: Nguyên từ buổi bế đạo, tuy Chánh pháp ra cũ mặc dầu, chớ kỳ trung thọ đắc kỳ truyền. Luật lệ tuy cũ chớ đạo vẫn như nhiên. Do công đức mà đắc đạo cùng chăng. Nhưng có một điều là Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ, nên tu nhiều mà thành ít.

Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ; ấy vậy Cựu Luật thì Ngọc Hư Cung đã biếm bác, còn Cổ Pháp thì Lôi Âm Tự đã phá tiêu…

                                                (Pháp Chánh Truyền).

BẠC

        1.- Bạc là một thứ kim loại quý, sắc trắng, lấy ở mỏ, người ta dùng làm đồ trang sức. Như: Vàng bạc.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Theo thế thường thì giàu đổi bạn sang đổi vợ, con người khi gặp nơi đắc dụng được kẻ biết trọng đãi kính nể mình, ban cho vàng bạc đủ đầy gái tốt hầu hạ sớm khuya, yến tiệc linh đình, tước cao lộc quí thì cho anh em ruột cũng quên được, vợ mình tấm mẳn cũng dứt tình, chúa cũ cũng không màng huống chi là kết nghĩa giao bằng hữu.

                     Lọc lừa chớ để đen pha trắng,

                     Lui tới đừng cho bạc lộn chì.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Để mặc đời thị thị phi phi,

                     Chưa ai rõ trong chì có bạc.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bạc là kim loại bạc, dùng làm tiền tệ. Như: Tiền bạc, bạc đồng, bạc giấy, bạc lạng.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn dạy: Thầy chẳng khi nào dụng những kẻ ấy vào nền Đạo bao giờ. Than ôi! Tiền lớn bạc nhiều, món ngon vật quý, hay xiêu lòng phàm phu. Của bất nghĩa kẻ trần còn chẳng chịu dùng thay!

                     Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,

                     Rán tập thành sửa tánh từ hoà.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Không bạc túi, dầu tròn cũng méo,

                     Sẳn tiền lưng, thật dở ra hay.

                                                (Thơ Huệ Giác).

        3.- Bạc là chỉ sắc trắng, giống như màu kim loại bạc. Như: Bạc đầu, tóc bạc, da mồi tóc bạc.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Đã hai mươi sáu năm họ (chỉ người trong Phạm Môn) chịu khổ nhọc đã nhiều. Hy sinh từ tóc xanh đến bạc đầu, lao tâm lao lực.

                     Khuôn đời chưa dễ tạo nên hình,

                     Tóc bạc còn mờ lối nhục vinh.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Tranh khoe nguyệt rọi làu sông Vị,

                     Mây tỏa sương phơi bạc đảnh Tần.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

        4.- Bạc 薄 là mỏng, ít, tệ, trái nghĩa với hậu. Như: Mệnh bạc, bạc bẽo, bạc đức, bạc nhược, bạc như vôi.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn dạy: Hại thay! Loài người bạc nhược thiếu đức tin mà phải chịu muôn lỗi ngàn tội đối với Đức Chí Tôn.

                     Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,

                     Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Nhiều cơn sóng dập gió thêm dồi,

                     Cái kiếp gì xem bạc quá vôi.

                                                (Đạo Sử).

BẠC BẼO

        Bạc: Mỏng manh, tệ, hèn kém.

        Bạc bẽo là tệ bạc, không trung thành.

        Thánh giáo bằng Pháp Văn của Đức Chí Tôn được Hội Thánh dịch ra Việt Ngữ có câu: Thầy chỉ định con lãnh một vai trò bạc bẽo mà nhân đạo. Con vì tâm tình cao thượng mà cứu vãn sự sụp đổ của một dân tộc đã hấp thụ một nền văn minh tối cổ.

                     Phải nào bạc bẽo hỡi em ôi!

                     Vì phận nghĩa kia xử khó rồi.

                                                (Thơ Thượng Sanh).

                     Thiên hạ diễn bao tuồng bạc bẽo,

                     Thế nhân được mấy thuở vàng son.

                                                (Thơ Hoài Tân).

BẠC ĐÃI 薄 待

        Bạc: Mỏng, trái với hậu là dầy. Đãi: Đối xử.

        Bạc đãi là đối xử tồi tệ, có ý khinh dể rẻ rúng. Phản nghĩa của bạc đãi là hậu đãi.

        Thánh Giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Làm đạo có khổ mới có công, công do khổ hạnh thì mới xứng với cõi hư vô. Như Phật Quan Âm buổi nọ, có bị đời bạc đãi mới đắc vị được.

Quyết bỏ ngôi Chí Tôn xuống lập Đạo, lại bị các con bạc đãi, biếm nhẻ, xua đuổi, bắt buộc đến đỗi phải chịu cho các con giết chết!

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BẠC ĐẦU

        Bạc: Màu trắng, đã chuyển thành màu trắng vì tuổi già. Đầu: Phần trên hết trong thân thể người.

        Bạc đầu là mái tóc bạc trắng cả.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Đã hai mươi sáu năm họ chịu khổ nhọc đã nhiều. Hy sinh từ tóc xanh đến bạc đầu, lao tâm lao lực.

                     Bạc đầu non chịu lằn sương nhuộm,

                     Nhăn mặt nước chờ trận gió qua.

                                                (Đạo Sử).

                     Nhẫng là đeo thảm chác sầu,

                     Tóc xanh cho tới bạc đầu cũng in.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẠC MỆNH 薄 命

        Bạc: Mỏng, mong manh. Mệnh: Số mệnh.

        Bạc mệnh là mạng số mỏng manh, bạc bẽo.

        Tô Thức có nói rằng: Tự cổ giai nhân đa bạc mệnh 自 古 佳 人 多 薄 命, nghĩa là tự nghìn xưa giai nhân đều bạc mệnh.

Chừng cơn phấn lợt hương tàn,

Núm mồ bạc mệnh bên đàng cỏ chôn.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẠC PHẦN

        Hay “Bạc phận”.

        Bạc: Mỏng mành. Phần (phận): Số phần, chỉ về số mạng dành cho mình.

        Bạc phần, như chữ “Bạc phận 薄 分”, là số mạng mỏng mảnh, hẩm hiu.

        Xem: Bạc phận.

                     Trai thì chinh chiến đời phiêu bạt,

                     Gái lại tùng phu kiếp bạc phần.

                                                (Thơ Thanh Hương).

BẠC PHẬN 薄 分

        Bạc: Mỏng mành. Phận: Phần số, những gì số mệnh đã dành cho mình.

        Bạc phận là phận mỏng, tức là số phần gặp những điều không may.

        Như: Hồng nhan bạc phận.

                     Sổ hồng phấn ghi câu bạc phận,

                     Giá ngàn vàng thử trận hơn thua.

                                                (Phù Kiều Hận Sử).

BẠC PHƯỚC 薄 福

        Bạc: Mỏng, xấu. Phước (phúc): Những điều tốt đẹp do trời ban cho.

        Bạc phước, như chữ “Bạc phúc 薄 福”, là phước mỏng, tức thiếu về phước đức, thiếu về may mắn.

        Trong Thuyết Đạo của Đức Thượng Sanh có câu: Vùng Thánh Địa Tây Ninh nầy là nhà chung của nhơn sanh, là nơi được Đấng Chí Tôn che chở dưới bóng từ bi, họp tất cả những tâm hồn biết tin cậy nơi lượng háo sanh của Đức Ngài, để gieo rắc tình thương yêu vô lượng, xoa dịu nỗi đau khổ của kẻ vô cùng bạc phước, dù ở trong cảnh ngộ nào, cũng là con cái chung của Đại gia đình mà Đức Ngài là Đại Từ Phụ.

                     Càng bạc phước càng than con dại,

                     Lo tảo tần mảy mạy dưỡng nuôi.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     Hỏi đon thử lời nguyền buổi trước,

                     Gẫm thân nàng bạc phước như ta.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẠC PHƯỚC VÔ DUYÊN

薄 福 無 緣

        Hay “Vô duyên bạc phước”.

        Bạc phước (phúc): Phước mỏng, thiếu phước đức. Vô duyên: Không có duyên phần, xấu số.

        Bác phước vô duyên là người thiếu phước và không duyên phần nên số phận dành cho toàn những chuyện không may mắn.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Ngài Hộ Pháp có câu: Tắc! Con nghe Thầy dặn: Con ngày nay đã cầm sanh mạng của Đạo nơi tay, con lại đủ quyền năng đạo đức với nghị lực tinh thần, con phải có dạ yêu thương những người

vô duyên bạc phước.

Tôi nay bạc phước vô duyên,

Không nhà không cửa gạo tiền cũng không.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BẠC TÌNH 薄 情

        Bạc: Mỏng. Tình: Lòng yêu mến.

        Bạc tình cũng như chữ “Bạc nghĩa 薄 義”, tức là nói người ăn ở bạc bẽo, không có tình nghĩa.

        Xem: Bạc nghĩa.

                     Trời hằng thương mến lũ nhơn sanh,

                     Giận nỗi cưu cưu ở bạc tình.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Bạc tình chi lắm hỡi ai ơi!

                     Bảy tháng chung vui đã mất rồi.

                                                (Đạo Sử).

Chuốt trau đẹp dạng tốt hình,

Ngữ ngôn dụng thói bạc tình gọi khôn.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

BẠC TÌNH BỘI NGHĨA

薄 情 背 義

        Bạc tình: Ăn ở bạc bẽo, không có tình cảm. Bội nghĩa: Phản bội lại ơn nghĩa.

        Bạc tình bội nghĩa là nói thái độ của kẻ ăn ở bạc bẽo, phản bội lại tình nghĩa của người.

                     Dập liễu vùi hoa không chút thẹn,

                     Bạc tình bội nghĩa có ra chi.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

BẠC TÓC DA MỒI

        Bạc tóc: Mái tóc bạc trắng, chỉ tuổi đã già.

        Da mồi: Da người già trổ lốm đốm những chấm màu nâu nhạt như mai con đồi mồi.

        Bạc tóc da mồi, như câu “Tóc bạc da mồi” chỉ người già, đầu đã bạc, da đã trổ lốm đốm như da đồi mồi.

                     Thương bạc tóc hỡi còn thương dại,

                     Thương da mồi còn phải thương ngu,

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

BẠC VÀNG

        Bạc: Kim loại màu trắng, thường dùng để mạ hay làm đồ trang sức. Vàng: Kim loại quý, có màu vàng, làm đồ trang sức.

        Bạc vàng, như chữ “Vàng bạc”. là bạc và vàng, thường dùng để chỉ những thứ quý giá.

                     Xin khá nhớ Tiên phàm khác tánh,

                     Đá đất nào dám sánh bạc vàng.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

BÁCH NIÊN 百 年

        Bách (Bá): Trăm. Niên: Năm.

        Bách niên, bởi chữ “Bách niên giai lão 百 年 皆 老”, tức là lời chúc vợ chồng ăn ở với nhau hoà hợp, sống lâu đến trăm tuổi.

                     Bỏ cuộc bách niên tròn bách sự,

                     Lên xe thiên cổ hưởng thiên phần.

                                                (Thơ Hoàn Nguyên).

                     Vàng son tô điểm màu song hỷ,

                     Tài sắt vun bồi chữ bách niên.

                                                (Thơ Hoài Tân).

BẠCH

        1.- Bạch là bày tỏ, nói, thưa.

        Như: Ăn chưa sạch bạch chưa thông, bạch Thầy con có lỗi, xin Thầy tha thứ.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bạch Ngài (Lý Giáo Tông), sự bí mật ấy Ngài có thể cho tôi biết đôi chút đặng tôi mới an tâm, an trí được.

Mong tầm Tiên học phép huờn hồn,

song sợ học phép mầu, Tiên chẳng bảo,

Muốn bạch Phật hỏi phương hiện thế,

lại e phương cấm, Phật không truyền.

                                                (Tuý Sơn Vân Mộng).

        2.- Bạch 白 là màu trắng. Như: Hắc bạch, bạch câu quá khích, bạch chủng (Giống người da trắng).

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bạch chủng giờ phút này, đương làm chúa thiên hạ vì văn minh của họ đến mức cao thượng, cũng như các chủng tộc kia vậy, đã đạt đến một nền văn minh khoa học tối yếu, tối trọng, huyền vi vô biên.

                     Bạch Y Quan mở đàng rước khách,

                     Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa.

                                                (Kinh Tận Độ).

                     Hắc bạch phú cho vầng nhựt nguyệt,

                     Thị phi chờ thoát bóng quang âm.

                                                (Thơ Huệ Giác).

        3.- Bạch 白 là sạch sẽ. Như: Thanh bạch, tấc lòng trinh bạch, tuyết bạch giá trong.

        Thánh giáo Thầy có câu: Thầy cũng hoan tâm nắm máy huyền vi, mong rằng các con sẽ tận lực tận tâm đắp vững nền Đạo đặng hoàn toàn mà dìu sanh chúng thoát khỏi tội tình, cùng nhau đỡ nâng đem lên con đường Cực Lạc, vẹt ngút mây xanh, trông vào lối thanh bạch thiêng liêng là chỗ từ xưa các Chí Thánh đã tổn lắm công phu mà chưa mong để mình đến được.

                     Thanh bạch một lòng vì đạo hạnh,

                     Có khi lóng đục bởi nhờ phèn.

                                                (Đạo Sử).

        4.- Bạch 白 là rõ ràng, sáng sủa. Như: Minh bạch, thanh thiên bạch nhật.

        Thánh giáo Thầy có câu: Lằn tang thương gần khởi, đường đạo đức chớ dần dà, công vẹt ngút mây xanh của các con sẽ làm cho sáng sủa bạch minh, cho bước đàng sau nầy do theo dấu ấy mà lần đến cõi vô ưu, để bước khỏi lối nhọc nhằn ban sơ khai dẫn.

Ấy vậy nên người làm Quan, lúc nào cũng phải trau giồi đức thanh liêm cho được rõ ràng minh bạch để nêu gương lành cho dân bắt chước.

                                                (Giáo Lý).

BẠCH ĐẰNG GIANG 白 籐 江

        Bạch Đằng Giang là sông Bạch Đằng, một con sông thuộc huyện Thuỵ Nguyên, tỉnh Kiến An bây giờ.

        Hưng Đạo Vương sai Nguyễn Khoái lén dẫn binh lên mé thương lưu sông Bạch Đằng, dùng gỗ đẻo nhọn có bịt sắt đóng khắp giữa giòng sông, rồi phục binh chờ thuỷ triều lên thì đem binh ra khiêu chiến. Chiến thuyền của quân Nguyên do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp xông vào đánh, quân Nguyễn Khoái quay thuyền chạy, nhử cho thuyền giặc qua khỏi chỗ đóng cọc.

        Đến lúc thấy thuỷ triều xuống thì quay binh lại hết sức mà đánh, kế có đại quân Trần Hưng Đạo tiếp đến. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp thấy quân thế nhà Trần quá mạnh, bèn quay thuyền chạy trở lại. khi chạy đến khúc sông có đóng cọc thì thuỷ triều đã rút xuống, thuyền của quân Nguyên vướng mắc phải cọc, đổ nghiêng đổ ngửa, đắm vở mất nhiều. Quan quân nhà Trần thừa thắng đánh cực hăng, quân Nguyên chết như rạ, máu loang đỏ cả khúc sông, tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đều bị bắt.

                     Dưới Hưng Đạo kiếm trăm đầu rụng,

                     Trên Bạch Đằng Giang vạn xác sình.

                                                (Thơ Thành Toại).

BẠCH ĐẦU 白 頭

        Bạch: Bạc, trắng. Đầu: Phần trên hết của thân thể người hoặc vật.

        Bạch đầu là đầu bạc, chỉ người già.

        Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng viết: Cổ nho có câu: Thanh sơn nguyên bất lão, vị tuyết bạch đầu, Lục thuỷ bổn vô sầu, nhơn phong sô diện. Nghĩa là: Núi kia chẳng phải già mà bị tuyết đóng nên bạc đầu, Nước kia chẳng phải sầu mà bị gió thổi nên nhăn mặt.

                     Trường xuân quạnh quẽ đưa ngưu đẩu,

                     Nẻo hoạn nghinh ngang điểm bạch đầu.

                                                (Quyền Giáo Tông Giáng).

BẠCH KHỈ TÌM ĐƯỜNG SƠN KHÊ

        Do điển nhà Châu, vua Châu Vương có nuôi một con khỉ trắng (Bạch khỉ) rất khôn ngoan, nghe được tiếng người, làm trò khiến vua tức cười mà quên buồn.

        Trong triều có quan Thừa tướng là Chu Ôn có tham vọng, nhiều mưu lược, lại được vua Châu Vương tin dùng. Thừa Tướng cấu kết với một số gian thần âm mưu thí vua chiếm đoạt ngôi báu.

        Khi Tân vương lên ngôi bèn truyền lịnh đem Bạch khỉ đến làm trò để giúp vui, nhưng con Bạch khỉ không chịu nhảy múa, đứng trơ trơ nhìn Tân vương. Tân vương tức giận định truyền quân sĩ đánh, nhưng thình lình Bạch khỉ nhảy đến quào quấu Tân vương đến đỗi nằm lăn dưới gạch. Bạch khỉ thừa dịp chạy thoát nhanh về chốn sơn khê.

        Để nêu gương loài vật biết việc chánh tà, tỏ lòng trung nịnh, nên Đức Hộ Pháp dạy cho vẽ một bức tranh trên hành lang Báo Ân Từ về phía nam phái lấy tích “ Bạch khỉ đến sơn khê”.

                     Châu Vương đã khéo nuôi Bạch khỉ,

                     Lúc Chu Ôn tiếm vị xưng vương.

Bảo múa, nhảy cắn trọng thương,

Vật vì chủ cũ, tìm đường sơn khê.

                                                (Báo Ân Từ)

BẠCH KHỈ

        Hay “Bạch Khởi”.

        Bạch Khỉ, còn đọc là Bạch Khởi 白 起, là người đời Chiến Quốc, làm đại tướng cho Chiêu Tương Vương nươc Tần, có tài dụng binh, đã từng đánh lấy 70 thành, được phong làm Võ An Quân.

        Bạch Khởi là người hiếu sát, khi đánh thắng Triệu Quát tại Trường Bình, quân Triệu đầu hàng hơn 40 vạn. Bạch Khởi sợ hàng binh nổi loạn, bày mưu cho binh Tần đội vải trắng, nửa đêm đánh vào hàng binh của Triệu, thấy ai không đội vải trắng giết sạch hơn 40 vạn quân trong một đêm.

        Sau Bạch Khởi bị gièm pha, phải chịu tam ban triều điển chết một cách thảm thiết.

                     Thạnh bỏ suy đương lao khổ phận,

                     Cũng như Bạch Khỉ đến hôn mê.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BẠCH NGỌC 白 玉

        Bạch: Màu trắng. Ngọc: Loại đá quý báu có màu sắc sáng bóng rất đẹp.

        1.- Bạch ngọc là loại ngọc màu sáng trắng, một loại ngọc quý báu.

        Như: Đôi bông tai cẩn bạch ngọc

                     Cao Đài tá thế đến phàm gian,

                     Bạch Ngọc Huỳnh Kim cũng chẳng màng.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

        2.- Bạch Ngọc, nói tắt của “Bạch Ngọc Kinh”, một tòa Thiên các của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế ngự, làm bằng ngọc màu trắng, sáng lòa rực rỡ.

        Xem: Bạch Ngọc Kinh.

                     Trên Bạch Ngọc Chí Tôn cao ngự,

                     Giữa Tây phương nắm giữ Thiên điều.

                                                (Kinh Thế Đạo).

                     Nguyện các Đấng đương chầu Bạch Ngọc,

                     Giúp thông minh lảu thuộc văn từ.

                                                (Kinh Thế Đạo).

                     Đạo hạnh khuyên con gìn tánh đức,

                     Cửa Cung Bạch Ngọc đã gần khai.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BẠCH NGỌC CHUNG 白 玉 鐘

        Bạch Ngọc: Ngọc trắng. Chung: Chuông.

        Bạch ngọc chung là chuông Bạch Ngọc.

        Bạch Ngọc chung là một cái chuông lớn được treo trên một cái giá, miệng chuông úp xuống, được đặt tại Bạch Ngọc Chung Đài trước Đền Thánh, thuộc đạo Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh.

        Xem: Lôi Âm Cổ.

                     Bạch Ngọc Chung chấn động cõi Trần ai,

                     Rước khách đến nhập cung Bạch Ngọc.

                                                (Hiền Nhơn Lê Văn Trung).

                     Lôi Âm Cổ khởi Tam Kỳ Hội,

                     Bạch Ngọc Chung khai thất ức niên.

                                                (Thơ Huệ Phong).

BẠCH NGỌC CHUNG ĐÀI

白 玉 鐘 臺

        Bạch Ngọc chung: Chuông Bạch Ngọc, tức Đại Hồng chung. Đài: Cái đài cao.

        Bạch Ngọc Chung Đài là cái đài cao nằm trước Đền Thánh, bên phía nam phái, trên đó đặt một cái giá treo chuông Bạch Ngọc (Đại Hồng Chung).

Hai bên Hiệp Thiên Đài, bên mặt thì có Lôi Âm Cổ Đài, bên tả thì Bạch Ngọc Chung Đài.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BẠCH NGỌC KINH 白 玉 京

        Bạch Ngọc: Ngọc trắng. Kinh: Tòa nhà lớn, là nơi thường ngự của Đức Thượng Đế.

        Bạch Ngọc Kinh là một tòa kinh thành ở cõi thiêng liêng là nơi thường ngự của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, làm bằng ngọc màu trắng, sáng lòa rực rỡ.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, có bài thi mô tả về Bạch Ngọc Kinh như sau:

                    Một tòa Thiên Các ngọc làu làu,

                    Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.

                    Vạn trượng then gài ngăn Bắc Đẩu,

                    Muôn trùng nhiếp khảm hiệp Nam Tào.

                    Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,

                    Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.

                    Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,

                    Vững bền muôn kiếp chẳng hề xao.

        Ở thế gian những lâu đài được xây dựng bằng vật chất thường bị hư sập, bị hủy hoại theo thời gian, nhưng tại sao Bạch Ngọc Kinh, bằng những loại ngọc quý báu nơi thiêng lại có thể tồn tại vĩnh viễn?

        Theo Kinh A Di Đà, Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật thuyết pháp cũng cho rằng tất cả lầu các nơi Cực Lạc Quốc đều được trang sức cũng bằng bảy thứ báu. Ngài nói: “Tứ biên giai đạo kim, ngân, lưu ly, pha lê hiệp thành. Thượng hữu lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu mã não nhi nghiêm sức chi 四 邊 階 道, 金, 銀, 琉 璃, 玻 璃 合 成. 上 有 樓 閣, 亦 以 金, 銀, 琉 璃, 玻 璃, 硨 磲, 赤 珠, 瑪 瑙 而 嚴 飾 之”, nghĩa là bốn phía có thềm bậc, đường đi do vàng bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Phía trên lại có lầu gác cũng dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang hoàng.

        Đức Phật tả bảy thứ báu kể trên chỉ là mượn danh hiệu những vật quí giá nhứt ở cõi thế gian nầy để tạm diễn tả nơi cõi Phật trang nghiêm rực rỡ, chứ mỗi thứ báu nơi Phật quốc đều thù thắng, siêu việt hơn các thứ báu là vật chất trong cõi trần của chúng ta gấp trăm vạn lần.

        Theo Cao Đài, Tòa Bạch Ngọc Kinh được Đức Hộ Pháp giải thích trong Thiêng Liêng Hằng Sống như sau: “Lại gần tới, còn thấy một vật khác thường quái lạ, nhưng nó là một tòa Thiên các đẹp đẽ lắm, màu sắc thay đổi sáng rỡ, mà cả thoại khí bao quanh, làm như thể vận chuyển hình trạng của nó vậy. Lâu đài chớn chở mà nó là con vật sống chớ không như gạch đá chúng ta làm đây, nó vận hành như con vật sống vậy, thay đổi màu sắc vô cùng vô biên. Bí pháp ấy không thể gì tả đặng, ngó thấy đặc sắc lắm.

        Nhà cửa ở thế gian nầy là con vật chết, Bạch Ngọc Kinh là con vật sống, biến hoá thay đổi như thể vận hành, xung quanh thoại khí bao trùm, từ nam chí bắc, từ đông qua tây. Khối lửa ánh sáng ấy, chúng ta ngó thấy như mặt trời vậy, mà ánh sáng mặt trời thì nóng nực bực bội, còn ánh sáng nơi Tòa Bạch Ngọc Kinh lại dịu dàng và huyền bí lắm, sung sướng khoái lạc lắm!

        Tại sao Đài các là con tử vật mà nó sống? Sống là do nơi đâu? Nếu biết thì không lạ gì.

        Bạch Ngọc Kinh là do Hỗn Ngươn khí biến hình ra. Hỗn Ngươn khí là khí Sanh Quang của chúng ta đã thở, đã hô hấp, khí để nuôi các sanh vật sống. Ta sống cũng do nơi nó xuất hiện, mà biểu nó làm sao không sống?”.

        Tóm lại, Bạch Ngọc Kinh là Tòa Thiên các ở cõi thiêng liêng, là triều nghi của Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.

        Người tu hành khi đắc Đạo thì chơn hồn đều phải đến Bạch Ngọc Kinh bái lễ Đức Chí Tôn.

        Tòa Thánh Tây Ninh do Đức Lý Giáo Tông giáng cơ chỉ cho Hộ Pháp xây cất mô phỏng theo kiểu vở hình ảnh của Bạch Ngọc Kinh nơi cõi thiêng liêng. Vì vậy, Tòa Thánh Tây Ninh được coi là Bạch Ngọc Kinh tại thế.

                     Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết,

                     Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh.

                                                (Kinh Cúng Tứ Thời).

                     Thời thường phụng hiến Huỳnh Kim Khuyết,

                     Đàn lệ thăng triều Bạch Ngọc Kinh.

                                                (Thơ Huệ Phong).

BẠCH PHÁT 白 髮

        Bạch: Trắng, bạc. Phát: Tóc.

        Bạch phát là tóc bạc, chỉ tuổi già.

        Người xưa cho rằng “Tâm sầu bạch phát” tức là lòng sầu muộn sinh ra đầu bạc. Do điển Ngũ Tử Tư vì buồn phiền và lo nghĩ việc báo thù, nên suốt đêm không ngủ, sáng hôm sau đầu tóc bạc hết.

        Duyên bạch phát là chỉ duyên nợ keo sơn, bền chặt cho đến tuổi già.

        Huấn từ của Đức Thượng Sanh đọc trong buổi lễ Cứu Trợ Việt Kiều Hồi Hương có dạy: Trên cõi tạm nầy, những nỗi buồn, vui, đau khổ, nhục vinh, là những đoạn trường mà khách trần, ai cũng phải trải qua từ thanh my chí bạch phát để nung đúc tâm hồn cho tới mức siêu nhiên và những ai đã vượt qua những cảnh bất thường ấy mà lòng vẫn minh chánh, chí vẫn thanh cao đó là những người biết sống, đáng sống và đã tìm ra con đường trở về với Đấng Chí Tôn Thượng Đế.

                     Bước thế chịu đày khơi bạch phát,

                     Nguồn Tiên ráng lướt rạng thanh my.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Tiệc ngọc vui vầy trang bạch phát,

                     Xe hoa mừng đón lứa thanh my.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BẠCH TUYẾT THẦN QUANG

白 雪 神 光

        Bạch tuyết: Tuyết trắng. Thần quang: Ánh sáng thần.

        Bạch tuyết thần quang là ánh sáng thần, trắng như màu tuyết.

        Trong đạo Cao Đài, Bạch tuyết thần quang là một sợi dây bằng hàng trắng dài ba thước, ba tấc, ba phân (3m33) và bề ngang rộng ba tấc ba phân ba ly (0m333) dùng để Bảo Văn Pháp Quân làm đai lưng.

        Khi đai dây Bạch tuyết thần quang phải buộc mối chừa ra trước thế nào đủ thắt một bông sen năm cánh.

Lưng (Bảo Văn Pháp Quân) đai Bạch Tuyết Thần Quang bằng hàng trắng…

                                                (Pháp Chánh Truyền CG).

BẠCH THỐ 白 兔

        Bạch: Trắng. Thố: Con thỏ.

        Bạch thố là thỏ bạc, chỉ mặt trăng.

        Bạch thố do tục truyền trên mặt trăng có con thỏ trắng giã thuốc, nên còn gọi mặt trăng là bạch thố.

        Xem: Thỏ bạc ác vàng.

                     Tuyến kim đưa khách chưa hoà,

                     Mượn gương bạch thố rọi nhà tri âm.

                                                (Tam Nương Giáng Bút).

                     Trông gương bạch thố gìn ngôi trước,

                     Ngó bóng kim ô giữ nghĩa sau.

                                                (Tiêu Diêu Đạo Sĩ).

BẠCH THỦ THÀNH GIA

白 手 成 家

        Bạch thủ: Tay trắng, chỉ hai bàn tay không.

        Thành gia: Thành nhà, chỉ nên sự nghiệp.

        Bạch thủ thành gia ý muốn nói người tài giỏi, chỉ có hai bàn tay trắng mà lập nên sự nghiệp.

                  Bạch thủ thành gia ít kẻ tài,

                  Cũng như Huệ Mạng thế không hai.

                                                (Đạo Sử).

BẠCH VÂN ĐỘNG 白 雲 洞

        Hay “Bạch Vân Am 白 雲 庵”.

        Bạch Vân: Mây trắng, đây là tên một cái Động Thánh nơi cõi Thiêng liêng. Động: Cái hang động.

        Bạch Vân Động, hay Bạch Vân Am, theo Đức Hộ Pháp là tên một cái Động hay Am ở Quảng Hàn Cung, tức Nguyệt cầu, do Bạch Vân Hoà Thượng làm giáo chủ mà kiếp giáng trần chính là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có Thánh danh là Thanh Sơn Chơn Nhơn.

        Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, chư Thánh Bạch Vân Động là Thanh Sơn Chơn Nhơn, Nguyệt Tâm Chơn Nhơn và Trung Sơn Chơn Nhơn lãnh lịnh Đức Chí Tôn làm trung gian ký kết một hoà ước giữa Trời và người, gọi là đệ tam Thiên nhân hoà ước.

        Xem: Tam Thánh.

        1.- Bạch Vân Động:

                     Bạch Vân Động trước có công tu,

                     Yên xã tắc nam cứ vận trù.

                                                (Thanh Sơn Giáng Bút).

        2.- Bạch Vân Am:

                     Hình Tam Thánh tạc rành trên vách,

                     Tiền căn đều ở Bạch Vân Am.

                                                (Lược Thuật Toà Thánh).

BẠCH VƯƠNG ĐẠI HỘI

白 王 大 會

        Bạch Vương Đại Hội là một Đại Hội trong ba thời kỳ khai Hội Long Hoa để phổ độ chúng sanh. Đó là Thanh Vương Đại Hội, Hồng Vương Đại Hội và Bạch Vương Đại Hội.

        Bạch Vương Đại Hội là một Đại Hội được mở ra trong thời kỳ phổ độ lần thứ ba, do Đức Di Đà Cổ Phật làm Chưởng Giáo, và Chủ khảo trong thời kỳ nầy.

        Sở dĩ gọi “Bạch Vương Đại Hội” là vì Hội Long Hoa kỳ thứ ba, ví như mùa thu, chủ về kim, thuộc màu trắng, nên gọi là Bạch Vương.

Nam Mô Tam Hội Long Hoa Bạch Vương Đại Hội, Di Lạc Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn.

                                                (Kệ U Minh).

BÁI

        Bái là lễ, lạy, cách cung kính đối với người trên. Như: Bái tạ, bái lễ, cúc cung bái.

        Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: Khi bái lễ, hai tay con chấp lại, song phải để tay trái ấn Tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái chụp lên trên.

                     Bớt những lẽ giựt giành bái phước,

                     Lấy Vu Lan đặng được ấm no.

                                                (Lục Nương Giáng Bút).

                     Hễ bé thơ tập vào bái ra chào,

                     Quyền cha mẹ, Trời cao kia dám sánh.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÁI CÔNG 沛 公

        Bái Công là của Lưu Bang, vị vua Cao Tổ nhà Hán.

        Lúc đầu, Lưu Bang tụ họp hơn ba ngàn người, khởi binh dựng nghiệp ở huyện Bái (Đất Bái) để đánh Tần, được dân chúng tôn là Bái Công.

        Đất Bái là một huyện của nước Tần đặt ra. Thời Hán thuộc Bái Quận, nay thuộc tỉnh Giang Tô, ở phía đông Bái Huyện.

        Xem: Lưu Bang.

Xưa Hớn Bái Công chưa phải là chánh đáng một vị minh quân, mà cơ Trời vẫn để cho nghiệp Hớn ba trăm năm quyền bỉnh.

                                                (Thánh Giáo Thái Thượng).

BÁI KỈNH

        Hay “Bái kính”.

        Bái: Lễ, lạy, cách cung kính đối với người trên. Kỉnh (kính): Lòng kính trọng.

        Bái kỉnh, như chữ “Bái kính 拜 敬”, là làm lễ lạy để tỏ lòng kính trọng.

                     Vọng Thượng Đế chứng lòng thành tín,

                     Chúng sanh đồng bái kỉnh khẩn nguyền.

                                                (Giới Tâm Kinh).

BÁI MẠNG

        Bái: Lễ, lạy, cách cung kính đối với người trên. Mạng (mệnh): Mệnh lệnh.

        Bái mạn, như chữ “Bái mệnh 拜 命”, là lạy vua hoặc các Đấng Thiêng Liêng và vâng mệnh sai khiến.

        Thánh giáo Đức Hộ Pháp dạy về lễ Tấn phong như sau: Còn lễ toàn đạo hiệp lại tổ chức cuộc lễ cho có vẻ tôn nghiêm rồi toàn thể Chức sắc Thiên phong đến hành lễ bái mạng cho vị Tân phong đủ uy quyền với toàn Đạo.

                     Phổ biến Cao Đài tròn trách nhiệm,

                     Ngọc Hư bái mạng hưởng tiền duyên.

                                                (Thơ Nguyệt Quang).

BÁI PHỤC 拜 服

        Bái: Lạy, vái, kính cẩn. Phục: Cho là tài giỏi, là đáng tôn kính mà theo.

        Bái phục, như chữ “Kính phục 敬 服”, tức chịu phục hoàn toàn, một cách kính cẩn.

Xưa Võ Vương nhà Châu nghe một lời nói phải thì bái phục.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BÀI

        1.- Bài là một thiên, một khúc về văn chương hay âm nhạc. Như: Bài thơ, bài luận, bài học, bài nhạc, bài thi.

        Thánh giáo Thầy có đoạn: Cuộc đời khó khăn tỷ như bài thi, nếu dễ thì ai thi cũng đặng, cuộc thi có ý vị gì đâu? Hễ bài càng khó thì đậu càng cao, đậu cao mới ra có giá.

                     Khi thong thả đặt bài trẻ học,

                     Lấy gương già gợi chọc sắp con.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     Con lo bài biết sợ biết rầu,

                     Theo dịu ngọt khuyên cầu con học hỏi.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bài là những tấm giấy nhỏ cứng có ghi hình hoặc nút, dùng làm quân trong vài môn cờ bạc.

        Như: Đánh bài, bài bạc, bộ bài, quân bài.

                     Cũng đừng ham kết bạn kết bè,

                     Theo cờ bạc bài me phá của.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Chẳng phải giỏi ra tài đánh lú,

                     Không phải hay bong vụ đánh bài.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        3.- Bài 排 là bẻ bắt, chê bai, đuổi trừ, không dùng một mình.

        Như: Anh ta bài bác người có đạo, cơ quan bài tiết, cô ấy hay bài trừ thuốc lá.

Vậy chớ quần chúng phải làm thế nào để bài trừ cái chế độ chánh trị tàn bạo kia hầu áp dụng chế độ dân quyền.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

        4.- Bài 牌 là một tấm làm bằng ngà, bằng gỗ hoặc bằng giấy, dùng để viết chữ vào đó. Như: Bài ngà, bài chỉ, bài vị, lệnh bài.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Ngay chỗ bàn ngự của Thầy, phải để một cái ghế trước ngôi ba vị Đầu Sư, vọng một bài vị, biểu Lịch viết như vầy: Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi ThinhPhổ Hoá Thiên Tôn, lại vẽ thêm một lá bùa "Kim Quang Tiên" để thòng ngay giữa, ai ai ngó vào cũng đều thấy đặng.

Hương thề để trước vị bài,

Châm đề thấy rõ những ngày biệt phu.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BÀI BÁC 排 駁

        Bài: Gạt bỏ. Bác: Không chấp nhận.

        Bài bác tức là chê bai, công kích nhằm mục đích gạt bỏ ra ngoài.

        Thánh Giáo Thầy đã dạy: Than ôi! Điều vui sướng lao trần chẳng ai buộc mà nhiều kẻ tìm tới, mối đạo đức trau thân là phương châm thoát tục mà lắm kẻ trốn lánh, bài bác mối Đạo Trời, khua môi uốn lưỡi, mà tưởng cho mình hơn đặng các phẩm nhơn sanh, chớ chẳng dè là một hình phạt rất nặng nề đã chực chúng nó nơi chốn A Tỳ.

Lễ Nhạc chẳng hoàn toàn, nhiều đứa cậy tài học giỏi, lượm lặt sách xả rác hủ nho, mong bài bác đặng vinh mặt.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BÀI BẠC

        Bài: Tấm giấy cứng có ghi hình hoặc nút dùng làm quân trong vài môn cờ bạc. Bạc: Tiền bạc.

        Bài bạc là đánh bài đánh bạc để ăn tiền, nói chung về bộ môn cờ bạc.

        Như: Bài bạc là bác thằng bần.

        Xem: Cờ bạc.

                     Cũng đừng bài bạc lận nhau,

                     Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.

                                                (Kinh Sám Hối).

BÀI TRỪ 排 除

        Bài: Đuổi trừ. Trừ: Bỏ đi.

        Bài trừ là trừ bỏ đi, làm cho mất đi.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Nơi xứ nầy, dân tình rất thuần hậu và ôn hoà, nên Thầy đến cũng như Chúa Cứu Thế đã đến với chúng con để bài trừ Tà thuyết và truyền bá Chơn đạo trên toàn cầu.

Nếu đã có tinh thần chế độ chánh trị dân quyền rồi, thì quần chúng coi đó là một chủ nghĩa phải theo đuổi để bài trừ một chế độ không hợp lòng dân.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BÀI VỊ 牌 位

        Bài: Tấm bảng. Vị: Chỗ ngồi.

        Bài vị còn gọi là Thần vị, Linh vị, Thần chủ, hay Mộc chủ, là một tấm giấy hoặc gỗ dày, có đế đặt đứng được. Trên mặt giấy hoặc gỗ có viết tên họ, ngày sinh, ngày mất của người chết…

        Bài vị được người xưa quan niệm là đặt trên bàn thờ để linh hồn người quá cố nương tựa vào đó.

        Trong Đạo Cao Đài, Bài vị còn dùng viết Thánh danh các Đấng để thờ. Đó còn được gọi là Long Vị.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Trung nghe! Con dời bài vị của Lý Bạch để dưới tượng Thầy, con dọn dẹp trong hết, để một cái ghế kế một bên tran thờ, rồi để lên một cái ghế lớn đặng làm ngôi Giáo Tông, ba cái nữa để sắp hàng theo ở dưới đặng làm ngôi cho ba vị Đầu Sư.

                     Bài vị lờ mờ nhang toả khói,

                     Ánh đèn mòn mỏi, nến rơi châu.

                                                (Thơ Hoài Tân).

BÀI XÍCH 排 斥

        Bài: Bắt bẻ, chê bai, đưa đẩy. Xích: Đuổi ra.

        Bài xích, như chữ “Bài bác 排 駁”, là chê bai, công kích nhằm mục đích loại ra ngoài.

        Bài xích còn có nghĩa bài trừ, ruồng đuổi.

                     Thiếu hoà ái ấy tâm bài xích,

                     Đủ đức tin là phúc vĩnh tồn.

                                                (Thơ Huệ Phong).

BÃI

        1.- Bãi là vùng đất ăn ra ven sông, ven biển, hoặc nổi lên ở giữa mặt nước.

        Như: Bãi sông , bãi biển, bãi sa mạc.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Phải có một bàn tay từ thiện giúp đỡ cứu nguy cho họ bằng không họ chẳng khác chi những khách lữ hành vì thiếu nước mà phải phơi thây giữa bãi sa mạc.

                     Bãi biển đưa chơn chưa đáng buổi,

                     Trần hoàn trả vẹn nợ tiền khiên.

                                                (Đạo Sử).

                     Dường như biển thảm không cầu,

                     Kẻ thì cuối bãi, người đầu gành khơi.

                                                (Thất Nương Giáng Bút).

        2.- Bãi khoảng đất trống, rộng rãi, bằng phẳng có một đặc điểm nào đó.

        Như: Bãi sa mạc, bãi chiến trường, bãi tha ma, bãi mìn, bãi cỏ non.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Những kẻ đau khổ chán chường, đó là những vết đen tối của bức tranh xã hội, những vai tuồng bẩn thỉu của sân khấu đời. Phải có một bàn tay từ thiện giúp đỡ cứu nguy cho họ bằng không họ chẳng khác chi những khách lữ hành vì thiếu nước mà phải phơi thây giữa bãi sa mạc.

                     Thương gái kiên trinh mùa chiến trận,

                     Thương trai nhiệt huyết bãi sa trường.

                                                (Thơ Hoàng Nguyên).

        3.- Bãi 罷 là bỏ đi, thôi không làm nữa. Như: Bãi binh, bãi chức, bãi công, bãi khoá.

        Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Lý Giáo Tông giáng cơ tại Cung Đạo Đền Thánh, đêm 6 tháng 5 năm Tân Hợi có câu: Vậy từ đây Lão bãi bỏ lịnh truất cầu thăng, rồi đây Hội Thánh Cửu Trùng Đài phải tái lập Sổ cầu phong và cầu thăng.

                     Sở buộc cống ngọc ngà báu nhứt,

                     Báu của Hàn đạo đức nghĩa nhân.

Sở Vương nghe sứ phân trần,

Báu xưa vui trả, xưng thần bãi đi.

                                                (Báo Ân Từ).

BÃI BUÔI

        Bãi buôi là chỉ người có vẻ ân cần, vồn vã với kẻ khác, nhưng trong lòng có thể không thật.

        Ca dao có câu: “Thương em, thương dạng, thương hình, Thương lời ăn tiếng nói thiệt tình không bãi buôi”.

                     Gặp lắm đứa du côn tánh nóng,

                     Mình bãi buôi trở giọng hiền từ.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Dù đang ray rứt niềm chua chát,

                     Cũng tạm bãi buôi ý ngọt ngào.

                                                (Thơ Hoài Tân).

BÃI CÁT

        Bãi: Khoảng đất trống, rộng rãi, bằng phẳng có một đặc điểm nào đó.

        Cát: Đá vụn thành hạt nhỏ ở bờ sông hoặc bờ biển.

        Bãi cát là những vùng đất toàn là cát ở ven sông hay ven biển, hoặc khoảng đất nào đó.

        Như: Du khách tắm biển nằm phơi mình trên bãi cát.

                     Mơ hồn hồ điệp đêm trăng lạnh,

                     Thương cái dã tràng bãi cát xây!

                                                (Thơ Thuần Đức).

BẠI

        1.- Bại là ở tình trạng bị suy yếu, giảm hoặc mất khả năng cử động, do tổn thương thần kinh.

        Như: Chân tay bị bại, do thất chí khiến tinh thần anh ấy lụn bại.

                     Rượu thịt hằng ngày hại tấm thân,

                     Say sưa vất vả, bại tâm thần.

                                       (Thơ Thiên Vân).

        2.- Bại là không đạt được kết quả dự định. Như: Thành bại, thắng bại, bại trận, bại danh.

        Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Lão, vì đã thấy rõ, nên không nỡ ngồi an xem cơ thắng bại. Lão nhứt định đứng chung vai đâu cật cùng chư hiền hữu, chư hiền muội, mà chia bớt khổ tâm.

                     Thành bại lẽ thường lo cũng uổng,

                     Để công dạy kẻ biết nguồn lành.

                                                (Đạo Sử).

Là vì biết chữ bại thành,

Say mê chung đỉnh tử sanh quay cuồng.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BẠI HOẠI 敗 壞

        Bại: Liệt, suy yếu, hư hỏng. Hoại: Phá nát.

        Bại hoại là tồi tàn, hư hỏng, tức suy đồi đến mức mất hết phẩm chất.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trời đã không nhường ai, không làm tôi tớ ai, thì con cái của Đức Chí Tôn cũng chỉ có phận sự giúp đỡ thiên lương của con cái Ngài, vì thiên lương ấy là căn bản tạo quyền cho thiên hạ, là con cái của Ngài, lẽ đương nhiên chúng ta phải biết phận sự đối với quốc gia xã hội, chúng ta đang ở trong tình thế bại hoại.

Mê hồn là đứa nịnh trân,

Làm cho bại hoại triều thần ngửa-nghiêng.

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo).

BẠI LỘ 敗 露

        Bại: Hư hỏng, thua. Lộ: Bày ra, bị người khác biết.

        Bại lộ là vỡ lở, không còn giấu giếm được nữa, tức công việc định giữ kín mà bị người phát giác.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Vì làm giàu với những hành động bất chánh nên họ vẫn cứ phập phồng lo sợ không biết cơ mưu sẽ bại lộ ngày nào.

Nhiều kẻ dụng thế để cầu Thầy, chớ kỳ thật là chúng nó muốn tìm cách dòm hành mong các con lầm mà bại lộ cơ quan mật yếu mà thôi.

                                                (Thánh Ngôn HiệpTuyển).

BAY

        1.- Bay là di chuyển trên không gian.

        Như: Phụng hoàng bay, máy bay trực thăng, mây bay lơ lửng trên bầu trời.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Còn con hạc nội, tuy bữa đói bữa no, nhưng Trời Đất rộng thinh, mặc tình cao bay xa liệng.

                     Bay đến Hồ Dương phụng gáy chiều,

                     Thần Tiên giáng thế biết bao nhiêu.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Tịch mịch mây bay cuốn bóng thiều,

                     Trời thu ướt át cảnh buồn hiu.

                                                (Thơ Huệ Giác).

        2.- Bay là di chuyển trong không khí, hoặc cuốn trôi theo làn gió thổi.

        Như: Hương bay nực nồng, khói bay mờ mịt, lá cờ bay trước gió.

        Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì có đoạn: Xin quý anh quý chị ráng nắm gốc cây cho chắc, kẻo gió lớn thổi bay đa! Ví dầu có thổi thế nào thì em xin quý anh quý chị ráng bịn gốc lại nghe.

                     Hương bay rừng trước nực mùi thung,

                     Đạo đức đem về một nẻo chung.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

        3.- Bay là phai mất, biến mất, trốn đi.

        Như: Áo quần đã bay màu, nước hoa đã bay mùi, cao bay xa chạy.

                     Bủa lưới Càn Khôn lừa lọc khách,

                     Chơn trời chẳng kẻ thoát cao bay.

                                                (Đạo Sử).

BAY BƯỚM

        Bay: Di chuyển trên không gian. Bướm: Tên một loại côn trùng cánh có phấn.

        Bay bướm là có hình thức trau chuốt, bóng bẩy, hơi kiểu cách.

        Như: Lời văn rất chảy chuốt và bay bướm.

                     Giọt rơi thánh thót: lời bay bướm,

                     Đèn lụn tờ mờ, gió vuốt ve.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BAY HƠI

        Bay: Bốc lên trên không. Hơi: khí, mùi.

        Bay hơi, như chữ “Bay mùi”, là hơi bốc lên trong có lẫn mùi thơm tho hoặc hôi thúi.

        Bay hơi còn có nghĩa là chất lỏng chuyển thành hơi ở lớp bề mặt.

        Như: Nồi cơm nếp bay hơi mùi lá dứa.

                     Trong núi lửa bay hơi tanh khét,

                     Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài!

                                                (Kinh Sám Hối).

BAY NHẢY

        Bay: Di chuyển trên không, dùng biểu thị hành động diễn ra nhanh lẹ. Nhảy: Co chân cất mình lên.

        Bay nhảy là khi bay khi nhảy, ý chỉ người năng động, thường tham gia công việc nầy, công việc nọ, không chịu ở yên một chỗ.

        Như: Anh ấy bay nhảy suốt mấy năm nay giờ mới chịu ngưng nghỉ.

                     Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,

                     Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh.

                                                (Kinh Sám Hối).

BÀY

        1.- Bày là xếp đặt, phô trương. Như: Bày quả phẩm để cúng tế, bày hương án để nghinh tiếp.

        Thánh giáo Thầy có câu: Phẩm tước là sự tổng hợp các chức tước đã bày ra để quyến rũ người hoặc ít hoặc nhiều. Những chức tước ấy do người đời tạo ra phong thưởng kẻ khác.

                     Khi vận thới lung lăng chẳng kể,

                     Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.

                                                (Kinh Sám Hối).

Chín tầng cửa đóng then cài,

Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày đoan trang.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

        2.- Bày là lập ra, làm ra. Như: Ai Bày luật lệ làm chi, bày cách làm ăn, bày kế thưa kiện.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thần Hoàng Bổn Cảnh có dạy: Bởi thế nên ai dùng vật thực mà cúng, tốt hơn nên dùng trái cây. Ai có lòng thì tế lễ chi chi ta cũng chẳng trách đặng, vì cựu lệ bày đến ngày nay.

                     Gặp thây nuốt sống ăn tươi,

                     Vì bày thưa kiện móc bươi xúi lời.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Xem thường dưới mắt dở cùng hay,

                     Ngặt độ cho ra chẳng kẻ bày.

                                                (Đạo Sử).

        3.- Bày là nói ra những điều thầm kín ở trong lòng.

        Như: Bày tỏ quan điểm, cạn bày những điều đã suy nghĩ trong tâm, giãi bày việc oan ức.

                     Bước chân ra nghĩ ngậm ngùi thay,

                     Nỗi ước nhiều phen khó cạn bày.

                                                (Nhàn Âm Đạo Trưởng).

BÀY BIỆN

        Bày: Phô trương, bày đặt.

        Bày biện là đặt ra những cái không cần thiết, không thích hợp.

        Bày biện còn là không ngăn nắp, trật tự, để đồ đạc phơi bày ra ngoài không theo hiện trạng ban đầu.

        Về nhạc lễ trong Đàn cúng, Đức Chơn Cực Lão Sư có dạy: Nhạc còn chưa đủ thể cách, đờn để rước chư Tiên, Thánh, không phải vậy là đủ. Người nhạc công phải ăn mặc tinh khiết, sắp đặt vào khởi Nhạc phải có thứ lớp phân minh, chớ chẳng phải muốn đờn bài chi cũng đặng. Ấy là trái Thánh ý đó. Phải sắp đặt lại, nghe à! Nơi đàn nào mà khác hơn Thánh giáo và bày biện nhiều trái cách thì đạo hữu không phép tham dự.

Nếu chẳng giữ theo lẽ chánh mà hành đạo và Bày biện nhiều sự vô lối thì trong ít năm sau đây, sẽ trở nên một mối Tả đạo, mà các con đã từng thấy.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BÀY ĐẶT

        Bày: Sắp đặt để tạo ra cho có. Đặt: Bịa ra, tức nghĩ cách để tạo dựng ra.

        Bày đặt là đặt để ra, hoặc đặt ra cái không cần thiết.

        Bày đặt còn có nghĩa là bịa chuyện không có.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo đã nói chức Đại Hương Cả hay Kế Hiền là mới bày đặt sau này, chớ Nho Giáo chỉ định tới Hương Chủ là hết.

                     Làm thinh thì thiếu nói ra cũng ngặt,

                     Sợ chê rằng bày đặt nên trò.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Xin đừng tưởng lời tôi bày đặt,

                     Mẹ cưng dâu trước mắt thấy thường.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÀY TRÒ

        Bày: Đặt ra, làm ra. Trò: Cuộc diễn ra để mà chơi.

        Bày trò là đặt ra một cuộc để vui đùa.

        Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Thất Nương Diêu Trì Cung có câu: Ôi! Câu hờn giọng thảm ai khéo bày trò. Ôi! Tánh hoài tình ai gây nên mối? Cái đời đã gọi là vô vị mà ai dè cho tới bậc Thần Tiên thoạt trông đến cũng phải nghiễm nhiên yêu trọng.

                     Ham miếng cao lương thường hại mạng,

                     Mê mồi danh lợi luống bày trò.

                                                (Thơ Thuần Đức).

                     Chung đỉnh bày trò không quyến luyến,

                     Công danh trước mắt chả xôn xao.

                                                (Thơ Cao Quỳnh Diêu).

                     Cuộc thế bày trò toàn ảo mộng,

                     Công danh phú quý gẫm bao lâu.

                                                (Thơ Thái Đến Thanh).

BÀY VẼ

        Bày: Sắp đặt để tạo ra cho có. Vẽ: Chỉ, bày cho, hoặc bày đặt thêm cái không cần thiết.

        Bày vẽ là giúp đỡ cho biết cách làm, cách giải quyết.

        Bày vẽ còn có nghĩa là đặt ra cái không thiết thực hoặc không thật cần thiết, làm cho thêm phiền phức.

        Đức Quyền Giáo Tông giải nghĩa về “Chí thành” cớ câu: Anh lớn chỉ biểu cho em nhỏ, người rõ Đạo bày vẽ cho kẻ chưa thông. Người nầy lầm lỗi kẻ kia chỉ giùm, dưới vui tuân lời trên dạy, trên không hổ cho dưới bày, lấy lễ hoà nhau, trên khuyên dưới kỉnh vui vẻ chung nhau, buồn thảm sớt nhau, giao lưng đâu cật mà bồi đắp mối Đạo Trời cho rõ là con một cha, chung thờ một chủ nghĩa.

Hành lễ do Thánh giáo lúc nơi đàn Cầu Kho, chẳng nên bày vẽ nhiều.

                                                (Thánh Ngôn HiệpTuyển).

                     Sang hèn bọt nước hay bày vẽ,

                     Vinh nhục đám mây khéo cợt trò.

                                                (Thơ Tiếp Đạo).

BẢY

        Bảy là một số đếm đứng sau số sáu và trước số tám. Như: Lên bảy, được bảy tuổi, bảy mươi, ba chìm bảy nổi.

        Thánh giáo Thầy dạy Ngài Giáo Hữu Thượng Kiệt Thanh có câu: Con phải giúp Thơ trong việc lập Thánh Thất. Thầy giao cho con phải săn sóc, mướn thợ làm bảy cái ngai: Một cái trọng hơn cho Giáo Tông, ba cái cho ba vị Chưởng Pháp, ba cái cho ba vị Đầu Sư, nhứt là cái ngai của Giáo Tông phải làm cho kỹ lưỡng, chạm trổ Tứ Linh, nhưng chỗ hai tay dựa phải chạm hai con Rồng, còn của Chưởng Pháp chạm hai con Phụng, của Đầu Sư chạm hai con Lân. Nghe à!

                     Trước lâm chứa đặng Bảy Ông Hiền,

                     Vì bỏ tục trần mến cảnh Tiên.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Bảy mươi chưa biết trọn mình lành,

                     Đừng thị khi đời ỷ miệng lanh.

                                                (Đạo Sử).

BẢY BƯỚC

        Hay “Bảy bước thành thơ”.

        Bảy bước hay “Bảy bước thành thơ”, bởi câu “Thất bộ thành thi 七 步 成 詩” nghĩa là bảy bước thành bài thơ.

        Do tích từ sách Thế Thuyết: Tào Phi, con của Tào Tháo, muốn hại em ruột của mình là Tào Thực, biểu trong bảy bước phải làm một bài thi, không làm xong, sẽ bị giết chết. Tào Thực liền ứng khẩu ngâm, Tào Phi xem xong bài rất nên cảm động, bèn tha cho em mình là Tào Thực. Xem: Củi đậu nấu đậu.

        Bảy bước hay bảy bước thành thơ ý chỉ người có tài về thơ ca.

        1.- Bảy bước:

                     Bảy bước chưa nên tài xạ kích,

                     Công danh đâu lại đợi người mời.

                                                (Đạo Sử).

                  Lánh mặt vùi chôn tài bảy bước,

                  Phủi tay đeo đuổi giấc ngàn năm.

                                                (Thơ Hoài Tân).

        2.- Bảy bước thành thơ:

Tài hay bảy bước thành thơ,

Điển xưa lưu dấu bây giờ còn ghi.

                                                (Thơ Thiên Vân).

BẢY CHIẾC NGAI

        Hay “Bảy cái ngai”.

        Bảy chiếc Ngai là bảy chiếc ghế chạm hình tứ linh Long, Lân, Phụng, sơn son thếp vàng, được đặt nơi bậc thứ 9 của Cửu Trùng Đài, hai bên có hai hàng Tàn, Lọng và dàn Bát bửu.

        Bảy chiếc ngai này từ dưới thấp kể lên theo thứ tự như sau:

        - Ba ngai dưới cùng dành cho ba vị Đầu Sư phái Thái, phái Thượng , phái Ngọc.

        - Ba ngai kế trên dành cho ba vị Chưởng Pháp cũng thuộc ba phái: Thái, Thượng, Ngọc.

        - Ngai sau hết lớn nhứt, đẹp nhứt dành cho Đức Giáo Tông.

        Trong Thánh Ngôn, Đức Chí Tôn dạy ông Kiệt, vị chức sắc tạo ra bảy chiếc ngai đó như sau: Kiệt! Con phải giúp Thơ trong việc lập Thánh Thất. Thầy giao cho con phải săn sóc, mướn thợ làm bảy cái ngai: Một cái trọng hơn cho Giáo Tông, ba cái cho ba vị Chưởng Pháp, ba cái cho ba vị Đầu Sư, nhứt là cái ngai của Giáo Tông phải làm cho kỹ lưỡng, chạm trổ Tứ Linh, nhưng chỗ hai tay dựa phải chạm hai con Rồng, còn của Chưởng Pháp chạm hai con Phụng, của Đầu Sư chạm hai con Lân.

Trước thì có bảy chiếc Ngai,

Giữa tám pho tượng phô bày ngũ chi.

                                                (Quang Cảnh Toà Thánh).

                     Trong có bảy chiếc Ngai vàng ánh,

                     Chạm Tứ linh vi cánh đẹp thay.

                                                (Lược Thuật Toà Thánh).

BẢY DÂY OAN NGHIỆT

        Dây oan nghiệt tức những điều oan nghiệt và mầm ác mà con người sống ở thế gian đã gây ra, tạo thành những sợi dây vô hình ràng buộc lẫn nhau, có khả năng lôi kéo các chơn linh phải chìm đắm vào luân hồi sinh tử.

        Vì sự thù giận mà con người gây ra những hành vi hung dữ, rồi tạo thành những mầm ác. Những mầm ác đó mới tạo nên căn nghiệp ác mà tự thân phải đền trả ngay trong kiếp hiện tại hay kiếp lai sinh. Cứ thế, những oan nghiệt trong nhiều kiếp chồng chất lên nhau mà tạo thành những chuỗi dây oan nghiệt. Kinh Giải Oan có câu:

Bước đường sanh tử đã chồn

Oan oan nghiệt nghiệt dập dồn trái căn

        Như vậy, tức là con người luôn tự mình xe dây để tự trói chặt vào mình mà không hay. Sợi dây oan nghiệt đó xây chuyển từ muôn đời ngàn kiếp trong cái vòng lẩn quẩn không bao giờ thoát ra nổi.

        Chúng sanh may duyên gặp thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn và Phật Mẫu khai nền Đại Đạo hầu mở cơ tận độ, nên giao cho những bài kinh Tận Độ và “Bí tích hành phép Đoạn căn” để giải thoát Chơn thần ra khỏi những sợi dây oan nghiệt đó.

        Trong quyển Bí Truyền Chơn Pháp, Ngài Đầu Sư Thượng Sáng Thanh có giải thích như sau: Sự sống của con người do nơi khí Sanh quang nuôi nấng, khí sanh quang nơi mình chúng ta tụ tại bảy khiếu làm nên điển lực, gọi là Thất khiếu sanh quang, phàm gọi là bảy dây oan nghiệt hay bảy sợi từ khí.

         Bảy dây oan nghiệt là bảy dòng điển lực nối liền giữa Chơn thần và thể xác, hễ điển lực còn thì thi hài còn vận chuyển, sanh hoạt, điển lực dứt thì thi hài phải chết. Khi sắp sửa chết thì thi hài phải chịu một phen khổ sở, đau đớn, vì bảy dây oan nghiệt này vẫn còn ràng buộc thể xác và Chơn thần, không bứt rời ra được.

        Còn theo hai Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển “Thiên Đạo” thì thể xác con người và Chơn thần liền nhau bởi sợi từ khí. Ngài nói: Có bốn thể là: Vật thể, Khí thể, Thần thể, Thánh thể.

        Vật thể (Corps physique: Rupa) là xác thịt, thể thứ nhứt của con người. Nó do bốn nguyên tố lớn hiệp thành (Tứ đại giả hiệp). Bốn cái nguyên tố ấy là: đất, nước, lửa, gió.

        Vật thể bị bao bọc bởi một lớp tinh khí (éther), gọi là Khí thể (Double éthérique: linga-sharira), cũng gọi là cái Phách (Chơn thần), kêu nôm là cái Vía, thuật âm phù gọi Tướng tinh. Khí thể dùng rút sanh lực vào Vật thể đặng giữ cho Vật thể được sanh tồn. Nhờ có Khí thể chở che bao học, Vật thể mới không tan rã.

        Khí thể dính với Vật thể bởi một sợi từ khí (lienmagnétique). Khi nào Khí thể bứt sợi dây ấy mà lìa khỏi Vật thể, thì con người phải chết. Lúc bấy giờ, Vật thể mất sự che chở của Khí thể, nên lần lần tiêu rã.

        Theo hai Ngài, có khi sợi từ khí khó bứt làm cho kẻ hấp hối phải nhiều đau đớn. Cho nên tôn giáo dùng kinh “độ hồn” đọc trong khi người bịnh sắp tắt hơi, là để giúp cho sợi từ khí nhờ sức rung động của những tiếng mầu nhiệm trong câu kinh mà được bứt ra dễ dàng.

        Người tu hành đầy đủ đạo đức thì Khí thể của họ nhẹ nhàng trong sạch, sợi từ khí ấy lại được tinh vi, nên khi thoát xác phàm, sợi từ khí bứt ra rất dễ, nên liễu trần một cách êm ái.

        Chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ được may duyên gặp đạo, chính Đức Chí Tôn vì lòng Đại từ bi, mở đạo Cao Đài và ân xá, ban cho những bài kinh Tận Độ và bí tích Cắt Dây Oan Nghiệt, tức là dùng tiếng kinh kệ mầu nhiệm hay những diệu pháp cắt bảy cái mối năng lực (bảy dây oan nghiệt hay bảy sợi từ khí) đặng cho Chơn thần xa lìa xác tục, rồi cũng dùng diệu pháp mà đưa vào cõi Hư linh.

        Vi vậy, chúng ta thấy khi hành phép đoạn căn cho người chết, vị hành pháp dùng kéo đi vòng quanh quan tài để cắt đứt bảy sợi dây oan nghiệt đó.

        Theo Ngài Đầu Sư Thượng Sáng Thanh, bảy dây oan nghiệt ở các vị trí sau của thân người:

                    - Ngay mỏ ác

                    - Ngay trán.

                    - Ngay cổ.

                    - Ngay tim.

                    - Ngay hông bên trái.

                    - Ngay dạ dưới.

                    - Ngay xương khu.

        Khi người hành pháp đoạn căn, người hành pháp phải định Thần cho thấy được xác mới cắt đúng vị trí của bảy lằn khí còn vướng bận với xác thân. Nghĩa là đi từ phải qua trái giáp vòng quan tài về vị trí giữa như lúc mới đứng ban đầu.

        Ấy vậy, làm phép xác cốt yếu là tắm gội xác tục và hồn với giọt nước Cam Lồ, cắt đứt bảy dây oan nghiệt cho Chơn thần lìa khỏi xác rồi đưa Chơn thần vào cõi Hư linh, nghĩa là Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, Tứ Đại Bộ Châu và Tam Thập Lục Thiên.

Bảy dây oan nghiệt hết ràng,

Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.

                                                (Kinh Tận Độ).

                     Khép kín bờ my giã cuộc đời,

                     Bảy dây oan nghiệt hết ràng thôi.

                                                (Thơ Hoàn Nguyên).

BẢY HAI ĐỊA CẦU

        Bảy hai địa cầu, như chữ “Thất thập nhị Địa Cầu 七 十 二 地 球”.

        Theo Thánh giáo, trong bảy mươi hai Địa Cầu, con người chúng ta đang ở trên Địa cầu 68, trên chúng ta nữa là Địa cầu 67, 66... rồi đến Địa cầu thứ nhứt, tức là được sắp xếp theo thứ tự từ trọng trược đến khinh thanh.

        Như thế, dưới Địa cầu 68 là bốn Địa cầu u tối nặng nề nữa, ấy là u minh giới.

        Xem: Thất thập nhị Địa.

                     Trên đường sứ mạng bằng nay,

                     Thông công khắp cả bảy hai Địa Cầu.

                                                (Lược Thuật Toà Thánh).

BẢY LÃO

        Bảy: Một số trên sáu dưới tám. Lão: Ông già.

        Bảy Lão tức là bảy ông lão đời nhà Tấn, thường vui chơi ở nơi rừng Trúc Lâm, mà người đời xưng tụng là Trúc Lâm Thất Hiền.

        Xem: Trúc Lâm Thất Hiền.

                     Bảy Lão nhắc tình già giẹo cẳng,

                     Ba bà hỏi việc mụ ham thi.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

BẢY NỔI BA CHÌM

        Bảy ba: Số dùng để chỉ nhiều phen, nhiều lần. Nổi chìm: Vật trôi trên dòng nước, lúc nổi, lúc chìm.

        Bảy nổi ba chim chỉ hoàn cảnh không may, gặp chuyện gian truân, vất vả phải chịu cực khổ như vật trôi lênh đênh trên mặt nước, khi chìm khi nổi bao phen.

                     Khiến trần gian bảy nổi ba chìm,

                     Người mê mẩn khó tìm đường chánh đại.

                                                (Giác Mê Khải Ngộ).

BẢY THIẾP

        Bảy: Số tiếp theo số sáu trong dãy số tự nhiên.

        Thiếp妾: Vợ kế, vợ bé trong các gia đình quyền quý, giàu sang thời xưa.

        Bảy thiếp, do tục ngữ có câu: “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”, dùng để chỉ người đàn ông ngày xưa có quyền lấy nhiều vợ (tục đa thê), nhưng đàn bà chỉ lấy một chồng.

                     Trai bảy thiếp cũng cho chẳng hại,

                     Gái lộn chồng đã hoại tánh danh.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẢY ỨC

        Bảy: Số tiếp theo số sáu trong dãy số tự nhiên.

        Ức 億: Mười vạn, hay một trăm ngàn năm.

        Bảy ức do chữ “Thất ức niên 七 億 年” là bảy chục vạn năm, hay bảy trăm ngàn năm (Thất bá thiên niên).

        Thánh giáo Đức Chí Tôn khi ban Tịch đạo chức sắc Cửu Trùng Đài Nam phái có câu: Thanh đạo tam khai thất ức niên 清 道 三 開 七 億 年, nghĩa là nền Đạo trong sạch của Đức Chí Tôn mở ra lần thứ ba được bảy trăm ngàn năm.

        Ngoài ra, cặp liễn trong ngày lễ khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vào ngày 15- 10- năm Bính Dần, 1926 tại chùa Gò Kén như sau: Di Lặc thất bá thiên niên quảng khai Đại Đạo, Thích Ca nhị thập ngũ thế chung lập thiền môn 彌 勒 七 百 千 年 廣 開 大 道, 釋 迦 二 十 五 世 終 立 禪 門, nghĩa là Đức Phật Di Lặc mở rộng nền Đại Đạo trong bảy trăm ngàn năm, Đức Phật Thích Ca lập Phật giáo trong hai mươi lăm thế kỷ thì chấm dứt.

        Xem: Thất ức niên.

                     Mở lối quy nguyên truyền bảy ức,

                     Phất cờ cứu khổ nắm hai đài.

                                                (Thơ Hoàng Nguyên).

                     Tàn cao bảy ức xuân chen trổ,

                     Cảnh tịnh bốn mùa khách viếng thăm.

                                                (Thơ Hoàng Nguyên).

BÁM

        1.- Bám là tự giữ chặt vào, tự giữ cho không rời ra khỏi vật gì đó.

        Như: Bám thân cây để leo lên, đĩa bám vào mình, bụi bám đầy quần áo.

                     Chơn bám địa cầu cứng biết bao,

                     Cả vườn đều thấp có ta cao.

                                                (Quyền Giáo Tông Giáng).

                     Năm tháng cỏ loang vùng cổ mộ,

                     Mai chiều bụi bám bức chân dung.

                                                (Thơ Hoài Tân).

        2.- Bám còn có nghĩa là dựa vào, không rời khỏi người khác để được tồn tại.

        Như: Sống bám vào cha mẹ, ăn bám xã hội, không lao động nuôi thân chỉ ăn bám vào của vợ.

        Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Đặng chúng ta mới có phương thế giúp ích cho họ, nếu không đủ trí tài thì chúng ta sẽ làm một con vật mà thôi, làm một vật ăn bám của xã hội nhơn quần không có hữu ích gì hết.

                     Quỷ đói giục lòng tham Đạo chích,

                     Ma nghèo lờn mặt bám thi gia.

                                                (Thơ Hoàng Nguyên).

BAN

        1.- Ban là từ Nôm chỉ khoảng thời gian không xác định rõ, nhưng tương đối ngắn. Như: Ban mai, ban trưa…

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Lằn tang thương gần khởi, đường đạo đức chớ dần dà, công vẹt ngút mây xanh của các con sẽ làm cho sáng sủa bạch minh, cho bước đàng sau nầy do theo dấu ấy mà lần đến cõi vô ưu, để bước khỏi lối nhọc nhằn ban sơ khai dẫn.

                     Ban mai ai đẩy mặt trời lên,

                     Không đặng cao sang chí kém bền.

                                                (Đạo Sử).

        2.- Ban 頒 là người trên cho kẻ dưới, hoặc truyền cho mọi người biết. Như: Vua ban sắc.

        Thánh giáo Thầy có câu: Cái quyền hành lớn lao ấy do Thầy ban cho nó, nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con mà làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.

Từ Bi ngũ cốc đã ban,

Dưỡng nuôi con trẻ châu toàn mảnh thân.

                                                (Kinh Thế Đạo).

        3.- Ban 班 là nhóm quan lại được chia theo văn, võ, hoặc tả, hữu và phân theo hạng bậc.

        Ban còn là một tổ chức gồm tập thể được lập ra để cùng làm một công việc.

        Thánh giáo Thầy dạy ông Marcel Martin, 135 rue Catinat, Saigon, có đoạn: Sau nầy, con sẽ là một trong các môn đồ trung thành của Thầy để đi truyền bá hoà bình và tương ái trên khắp hoàn cầu. Ban Truyền giáo Pháp sẽ được thành lập gần đây.

                     Giúp dân hưởng chữ thái bình,

                     Văn ban võ bá triều đình đặc an.

                                                (Kinh Thế Đạo).

                     Nơi Diêu điện, lưỡng ban chầu chực,

                     Nhớ đến con bứt rứt lòng già.

                                                (Diêu Trì Kim Mẫu).

BAN BỐ 頒 布

        Ban: Vua hoặc các Đấng Thiêng Liêng cho, cấp cho người dưới. Bố: Khắp mọi nơi.

        Ban bố là ban hành và công bố cho mọi người biết. Như: Ban bố một đạo luật.

        Ban bố còn có thể hiểu là ban và bố hoá cho.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tâm là một nguồn sáng Thiêng Liêng, một điểm linh quang của Đức Chí Tôn ban bố cho con người để khuyên lơn dìu dắt và soi sáng bước đường đời cũng như bước đường Đạo của mỗi cá nhân trong kiếp sanh, hầu lúc rời bỏ xác phàm, mỗi nguyên nhân hay hoá nhơn được hoặc qui hồi cựu vị, hoặc thăng đẳng cấp, hoặc bị trừng trị theo Luật Thiên Điều.

                     May đặng Chí Tôn ban bố phước,

                     Trở nên phú quý hưởng ân hồng.

                                                (Thơ Thái Đến Thanh).

BAN ĐẠO SỬ

        Ban: Một tổ chức nhiều người có nhiệm vụ được quy định. Đạo sử: Lịch sử của tôn giáo.

        Ban Đạo sử là một tổ chức nhằm sưu tầm, nghiên cứu, lưu trữ các tài liệu lịch sử của đạo Cao Đài từ hồi khai đạo trở về sau.

        Để lưu giữ lại những tài liệu lịch sử của Đạo, Hội Thánh Cao Đài có thành lập một Ban Đạo Sử theo vi bằng số 02/VB ngày 26-10- Mậu Thân (Dl 15- 12- 1968) do phiên họp của Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện, dưới sự chủ toạ của Đức Thượng Sanh.

        Ban Đạo Sử có nhiệm vụ sưu tầm, nghiên cứu các tài liệu lịch sử của đạo Cao Đài.

        Đôi liễn Ban Đạo Sử đã được Ngài Phối Sư Thượng Cảnh Thanh soạn và dâng Hội Thánh:

道 脈 開 成 教 理 搜 尋 今 驗 古

Đạo mạch khai thành giáo lý sưu tầm kim nghiệm cổ

史 綱 編 撰 真 經 藏 貯 本 追 源

Sử cương biên soạn chơn kinh tàng trữ bổn truy nguyên

        Nghĩa là:

        Đạo mạch đã khai mở, sưu tầm giáo lý, xem việc nay nghiệm lại việc xưa,

        Sử cương được biên soạn, tàng trữ chơn kinh, tìm hiểu tận nguồn gốc.

                     Đạo sử phòng văn lễ khánh thành,

                     Một toà đồ sộ đẹp như tranh.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

BAN HÀNH 頒 行

        Ban: Ban cho, công bố. Hành: Làm, đi, thi hành.

        Ban hành là tuyên bố để thi hành.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Trước khi ngưng cơ, Thầy đã cho lịnh dùng cơ bút thế nào? Thầy tưởng mỗi Thiên phong đều đặng Thánh Ngôn của con đã ban hành, sao còn có ra việc bất minh ấy, là con chẳng nói tất cho mỗi Thiên phong rõ và ban hành Thánh ý, để cho chúng nó chác lấy vào mình, thì con cũng không khỏi chia một phần trong ấy.

Đầu Sư Nữ phái chịu công cử theo luật Hội Thánh ban hành, theo luật lệ Hội Thánh phân xử về đường đời và đường đạo.

                                                (Pháp Chánh Truyền CG).

BAN KỲ LÃO

        Ban 班: Một tổ chức gồm nhiều người có phận sự đặc biệt. Kỳ lão 耆 老: Những người già trên sáu mươi tuổi.

        Ban Kỳ Lão là một đoàn thể gồm những người già trên sáu mươi tuổi nằm trong Hội Thánh Phước Thiện.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nên nhớ, Hội Thánh Phước Thiện không có hàm chức như Hành Chánh, phải đi theo lên cho tới tột phẩm Phật Tử. Những Chức Sắc hàm chức ngày nay Bần Đạo sẽ kiếm thế đưa qua Ban Kỳ Lão hết.

                     Hiền hữu hiệp với Ban Kỳ Lão mà tính việc ấy.

                                                (Thánh Giáo Hộ Pháp).

BAN KIẾN TRÚC

        Ban 班: Tổ chức gồm một tập thể người được lập ra để cùng làm một công việc. Kiến trúc 建 築: Xây đắp.

        Ban Kiến Trúc là một trong ba Ban của Cơ quan Công thợ Đạo Cao Đài.

        Năm 1950, Đức Hộ Pháp ký Thánh Lịnh số 231 ngày 9 tháng 7 năm Canh Dần để thành lập Cơ quan Công thợ gồm có ba Ban: Ban Kiến Trúc, Ban Nhà Thuyền, Ban Mỹ thuật.

        Ban Kiến Trúc có nhiệm vụ lo việc thiết kế, xây dựng, trang trí các Thánh Thất, hay các Điện Thờ Mẫu, cùng các cơ quan khác ở trung ương hay các địa phương.

        Đứng đầu Ban Kiến Trúc là một vị Tổng Giám, nhiều vị Phó Tổng Giám và Tá Lý giúp việc.

Nhứt là nhờ nơi công quả của Ban Kiến Trúc và thợ chuyên môn toàn là người hiến thân cho Đạo.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BAN KHEN

        Ban 頒: Trên cấp cho kẻ dưới. Khen: Nói lên sự đánh giá tốt về người nào với ý vừa lòng.

        Ban khen là cấp trên khen ngợi cho kẻ dưới.

         Thánh giáo Lý Giáo Tông dạy Ngài Ngọc Trang Thanh có đoạn: Lão để lời ban khen đó. Nên hư của Đạo đều nơi tay hiền hữu, hiền hữu khá liệu lấy mà giữ gìn.

                     Ví biết ăn năn đền tội trước,

                     Sửa răn sửa mạng Lão ban khen.

                                                (Đạo Sử).

BAN PHÉP LÀNH

        Ban 頒: Trên ban tặng cho. Phép lành: Những điển quang huyền diệu của Thiêng Liêng giúp con người nhẹ nhàng, sáng suốt.

        Ban Phép Lành là một bí pháp thiêng liêng huyền diệu của Đức Chí Tôn hay các Đấng Thiêng Liêng ban phát xuống điển quang lành cho chúng sanh được sáng suốt, nhẹ nhàng, tránh được phiền não vô minh để bước yên trên đường đạo đức.

        Thánh Giáo Đức Chí Tôn vào đêm 1 tháng 1 năm Đinh Mão (Dl 2-2-1927), sau khi khen thưởng các cao đồ, rồi Ngài giở cơ lên để Ban Phép Lành cho chư chúng sanh: “Nhiều đứa khác nữa, ngày mùng 9, Thầy biểu đòi về cho Thái Bạch phong thưởng. Thầy ban ơn trọn cả các con, dầu không có mặt tại đây cũng vậy.

        Thầy giở cơ lên, các con đều chun ngang qua cho Thầy Ban Phép Lành”.

        Đức Hộ Pháp khi trấn thần chợ Long Hoa, rồi cũng có Ban Phép Lành, Ngài nói: “Ngày giờ nầy, tuy là nhìn thấy cái chợ thô sơ, nhưng rồi đây nó sẽ bành trướng rộng rãi hơn, long trọng hơn mà chắc chắn con cái Đức Chí Tôn không bao giờ ngờ như thế, nhưng Bần Đạo dám quả quyết nó phải có và nhứt định có, vì cái chợ chuyển thế và huyền diệu Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định vậy”.

        Sau hai năm trấn thần và Ban Phép Lành ngôi chợ Long Hoa, Đức Hộ Pháp lại nói: “Khi Qua ra khỏi nhà Tịnh Trí Huệ Cung, về nơi đây Qua Ban Phép Lành nơi Chợ Long Hoa là ngày mồng 2 tháng 5 năm Tân Mão khởi sự làm Chợ Long Hoa thì tháng 7 năm Tân Mão cho tới tháng 7 này thật ra chỉ có 2 năm mà thôi. Mấy em coi cái đức tin của con người, nếu mà nhơn loại trụ cả đức tin lại làm một khối thì không có gì mấy em làm không làm đặng, Qua vẫn biết cả cái sự nghiệp kinh dinh do tinh thần hoạt bát của mấy em, làm cho Qua được hưởng hạnh phúc trước mắt, cái đền ơn rất trọng hậu của mấy em đối với Qua đó vậy.

                     Ban Phép Lành nhơn loại biết yêu thương,

                     Ngưng chém giết biểu dương tình huynh đệ.

                                                (Thơ Huệ Phong).

BAN QUYỀN 頒 權

        Ban: Cho, cấp trên cho người dưới.

        Quyền: Điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm.

        Ban quyền là ban cho quyền hành.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy đã lập hình thể hữu vi của Thầy, nghĩa là Hội Thánh của Đại Đạo ngày nay, rồi thì Thầy cũng phải ban quyền hành trọn vẹn của Thầy cho hình thể ấy đặng đủ phương tận độ chúng sanh; còn các con cả thảy đều đứng vào hàng sanh chúng, dưới quyền hành chuyển thế của Đời, nghĩa là toàn nhơn loại đồng quyền cùng Thầy, mà tạo hoá vạn linh vốn là con cái của Thầy.

                     Nhờ Ngài mới đặng phục nguyên,

                     Ngài xin chính phủ ban quyền tự do.

                                                (Văn Tế Quyền Giáo Tông).

BAN SẮC 頒 敕

        Ban: Tặng, cấp cho. Sắc: Tờ lệnh của vua.

        Ban sắc là Vua ban lịnh truyền xuống thi hành.

        Trong Đạo Cao Đài, ban sắc là nói Đức Chí Tôn hay Hội Thánh ban lịnh truyền xuống sắc phong phẩm tước hoặc truyền lịnh buộc phải thi hành.

Thầy đã ban sắc cho Thần Hoàng Long Thành thăng lên chức Văn Xương, vào trấn nhậm làng Hiệp Ninh, dạy dỗ dân về Đạo

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BAN SƠ

        Ban: Đương lúc, chỉ khoảng thời gian không xác định rõ, nhưng tương đối ngắn. : Mới đầu.

        Ban sơ là lúc đầu, tức là đang buổi khởi đầu.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ba con đã lãnh mạng lịnh lớn lao vẹt đường tăm tối trong buổi ban sơ, Thầy lại khiến cả ba đứa phải liên hiệp nhau mới có thể xây đắp nền Đạo cho đến cùng.

Di tích lịch sử ban sơ,

Thượng Phẩm quỳ tại ngôi thờ cung nghinh.

                                                (Báo Ân Từ).

                     Để di tích ban sơ khai Đạo,

                     Nhờ Ngọc cơ thấu đạo huyền vi.

                                                (Lược Thuật Toà Thánh).

BAN THẾ ĐẠO

        Ban 班: Một nhóm gồm nhiều người. Thế Đạo 世 道: Thuộc chi Thế của Đạo.

        Theo Quy Điều Ban Thế Đạo, Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Toà Thánh Tây Ninh thành lập Ban Thế Đạo cốt yếu mở rộng trường công quả, tiếp đón những bực nhơn tài văn võ có khả năng phụng sự cho Đạo mà không phế đời hành Đạo.

        Chức sắc trong Ban Thế Đạo có nhiệm vụ độ đời nâng Đạo, hành sự trực tiếp với Cửu Trùng Đài về mặt chuyên môn trong xã hội, trực thuộc chi Thế của Hiệp Thiên Đài về mặt chơn truyền và luật pháp.

        Ban Thế Đạo gồm bốn phẩm chức sắc: Hiền Tài, Quốc Sĩ, Đại Phu và Phu Tử.

          Phẩm Hiền tài do Đức Hộ Pháp lập ra, sau trong Đàn cơ tại Giáo Tông Đường ngày 3 tháng 12 năm Quí Tỵ (Dl 7/1/1954), Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban cho ba phẩm chức sắc nữa là Quốc Sĩ, Đại Phu, Phu Tử.

        Quy điều Ban Thế Đạo được Hội Thánh Hiệp Thiên Đài lập và Đức Thượng Sanh ban hành ngày 28 tháng 2 năm Ất Tỵ (Dl 30/3/1965) và sau đó Nội Luật Ban Thế Đạo được Đức Thượng Sanh ban hành ngày 28 tháng 2 năm Ất Tỵ (Dl 30/3/1965).

        Trụ sở Văn Phòng Ban Thế Đạo được đặt tại lộ Oai Linh Tiên, sau lưng của Y Viện Hành chánh.

                     Ban Thế Đạo đang xây bên tả,

                     Những Hiền Tài nay đã thọ phong.

                                                (Quang Cảnh Toà Thánh).

BAN THƯỞNG 頒 賞

        Ban: Người trên cấp cho người dưới. Thưởng: Khen ngợi, trả công cho người có công.

        Ban thưởng là nói người trên ban tặng tiền của, chức tượng cho người có công.

        Thánh giáo Thầy có đoạn: Thầy đã lập Đạo nơi cõi Nam nầy là cốt để ban thưởng một nước từ thuở đến giờ hằng bị lắm cơn thạnh nộ của Thầy. Thầy lại tha thứ, lại còn đến ban thưởng một cách vinh diệu.

Thiên ý đã xoay chuyển, đã sắp đặt cơ hội, đã tạo thành dịp tốt và rốt cuộc sự ban thưởng đã đến bất ngờ, dầu muốn dầu không cũng phải đành chịu nhận lãnh.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BÁN

        1.- Bán là đổi vật, đổi mối lợi hoặc đổi sức lực để lấy tiền, hay lấy một vật khác.

        Như: Bán hàng, bán nước, bán tiếng, bán công sức.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có đoạn: Hiền hữu rõ chưa? Đã lầm nhiều rồi đó. Danh Đạo đã bán một lần rồi, ráng mà chuộc lại.

Chờ khi lúa phát giá cao,

Khai ra bán mắc Trời nào dung cho.

                                                (Kinhn Sám Hối).

                        Mua bán chọn lừa như buổi chợ,

                        Về nhà chưa tối đã qua đời.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

        2.- Bán 半 là nửa, một nửa, một phần hai. Như: Bán đảo, bán thân, bán tín bán nghi.

        Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Mỗi kẻ phàm dưới thế nầy đều có hai xác thân: Một phàm gọi là Corporel, còn một thiêng liêng gọi là Spirituel, mà cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng có thể không thấy đặng.

                     Khải tịch nhược hoài thiên tứ cổ,

                     Chung minh bán điểm khẩn Từ Bi.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Chua cay đã chịu lắm mùi đời,

                     Bán thế gỡ chưa khỏi vận thời.

                                                (Đạo Sử).

BÁN ĐỒ NHI PHẾ

半 途 而 廢

        Bán đồ: Nửa đường. Nhi phế: Mà phế bỏ.

        Bán đồ nhi phế là nửa đường lại bỏ, ý nói công việc tiến hành làm đến nửa chừng lại bỏ phế.

        Thánh giáo Đức Hộ Pháp có câu: Bần đạo nhớ lại lúc ban sơ bị áp bức đủ điều, mà cũng phải cam tâm làm tròn nhiệm vụ. Nếu vì thiếu luyện kỷ thì cũng vì tự ái mà bán đồ nhi phế cũng như ai mà chớ.

Vì ở trong cảnh ngộ đó cũng chưa phải là quá thất vọng chán nãn đưa đến chỗ bán đồ nhi phế, bỏ dở hành trình.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BÁN LẬN BUÔN GIAN

        Bán lận: Bịp hay lừa gạt để bán ra. Buôn gian: Buôn bán có tính gian manh, xảo trá.

        Bán lận buôn gian, như câu “Buôn gian bán lận”, có nghĩa là buôn bán không ngay thẳng, chỉ dùng sự gian lận để gạt người trong sự mua bán.

        Như: Kẻ gian thương thường thường bán lận buôn gian mà làm giàu.

Quốc dân ăn thãi uống thừa,

Khôn ngăn bán lận, khó ngừa buôn gian.

                                                (Ngụ Đời).

BÁN MÌNH

        Bán: Đổi vật để lấy tiền. Mình: Thân mình.

        Bán mình, như chữ “Bán thân”, tức là lấy thân mình đem bán, ý chỉ hy sinh bản thân để chuộc tội cho cha mẹ.

        Do tích: Nàng Đề Oanh, con gái của Thuần Vu Ý, đời vua Hán Văn Đế đem thân bán vào cung để chuộc tội cho cha.

        Thuần Vu Ý bị tội nhục hình nhưng vì ông không có con trai để hậu tự, nàng con gái thứ năm là Đề Oanh dâng thơ cho vua Hán Văn Đế, xin bán mình vào cung để chuộc tội cho cha.

        Vua cảm lòng chí hiếu, bèn tha tội cho cha nàng.

                     Giữ đạo mong chờ ngày độc tịch,

                     Bán mình quyết cứu độ song thân.

                                                (Thất Nương Giáng Bút).

BÁN NÀI

        Bán: Đổi vật mà lấy tiền, lấy lợi. Nài: Cố mời, khẩn khoản xin, yêu cầu.

        Bán nài là vừa bán vừa nài xin người mua, ý nói vật mất giá trị nên phải yêu cầu nài ép để bán.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Đạo là quý, của quý chẳng bán nài, các con đừng thối chí.

                     Trên chẳng đặng nương vin khúc giữa,

                     Đừng cho sụt giá bán nài hàng.

                                                (Đạo Sử).

                     Hiếu trung đã đủ đôi thân trả,

                     Mua phẩm Thần Tiên sẽ bán nài.

                                                (Đạo Sử).

BÁN NGUYỆT MUA HOA

        Bán mua: Mua và bán. Nguyệt hoa: Trăng hoa, chỉ sự tư tình giữa trai gái, sự ăn chơi đàn điếm.

        Bán nguyệt mua hoa là nói hạng gái lầu xanh, chuyên đem việc trăng hoa ra mua bán.

        Xem: Buôn hương.

                     Chỉ những phường bán nguyệt mua hoa,

                     Đưa hơi quyển ngâm nga trêu sắc gái.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÁN TÍN BÁN NGHI

半 信 半 疑

        Bán tín: Một nửa thì tin tưởng. Bán nghi: Một nửa lại nghi ngờ, không tin.

        Bán tín bán nghi là nửa tin nửa ngờ, tức chưa tin tưởng hoàn toàn, còn một nửa ngờ vực.

        Như: Lời nói của nó khiến tôi bán tín bán nghi.

                     Nghe chi tiếng vô nhân đạo thính,

                     Mà để lòng bán tín bán nghi.

                                                (Ngọc Hoàng Thượng Đế).

BÀN

        1.- Bàn là bày tỏ trước nhiều người điều phải trái, hay dở để quyết định một việc gì. Như: Bàn việc Đạo, bàn hơn tính thiệt.

        Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu dạy: Nên khá dè chừng, đừng vội luận nhảm bàn khùng mà mang tội thiêng liêng rất uổng, nghe!

                     Bàn qua thế sự lắm buồn cười,

                     Nếu cả nhơn sanh phải giống ngươi.

                                                (Đạo Sử).

                     Lẽ nhục vinh tính tính bàn bàn,

                     Em làm phải vội vàng khen hết tiếng.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bàn là đồ dùng bằng gỗ, hình tròn, vuông hay chữ nhật, dưới có chân, mặt trên phẳng. Như: Bàn ăn, bàn viết, bàn thờ, bàn cầu cơ.

        Thánh giáo Thầy có câu: Bàn Thầy giáng cơ thì để trước bàn vọng Ngũ Lôi, khi giáng cơ rồi thì dời đi cho trống chỗ, đặng nhị Đầu Sư quỳ mà thề.

                     Anh xây lưng làm mặt ông hoành,

                     Lên bàn viết vẽ hình đầy sách vở.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Năng chùi lau, tủ, kiếng, ghế, bàn,

                     Đừng để đóng làng khan bụi nhện.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        3.- Bàn 蟠 tức là “Bàn đào 蟠 桃” một thứ đào ở nơi Diêu Trì Cung, Đức Phật Mẫu thường dùng để hội yến, gọi là Hội Yến Bàn Đào.

        Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Chúng tôi tưởng tượng một ngày kia, khi tu đắc Đạo, về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, tức nhiên về cảnh Tiên, mới có hạnh phúc, mới có thể Hội Yến Diêu Trì hưởng Tiên Tửu, hưởng Bàn Đào, chớ đâu có ngờ Hội Yến Diêu Trì là hội ngộ các vị Tiên Nương tại mặt thế gian này.

                     Rượu cúc Bàn Đào chờ hội ẩm,

                     Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh tồn.

                                                (Lục Nương Giáng Bút).

BÀN BẠC

        Bàn: Bày tỏ điều phải trái, hay dở để quyết định một việc gì, hoặc vấn đề gì.

        Bàn bạc, như chữ “Bàn luận”, là cùng thảo luận, trao đổi ý kiến qua lại với nhau để có sự phân tích lý lẽ.

        Như: Trước khi làm, phải bàn bạc cho chắc chắn.

Đang lúc quốc dân bồng bột giành giựt vì sanh kế, mà đem vấn đề Tu Thân ra bàn bạc thiết tưởng cũng một sự rất hạp thời.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BÀN CAI QUẢN PHƯỚC THIỆN

        Bàn Cai Quản Phước Thiện là một ban có nhiệm vụ cai quản, điều hành về hoạt động phước thiện trong một quận Đạo của Đạo Cao Đài.

        Theo Đạo Luật năm Mậu Dần, mỗi nhà Sở Phước Thiện trong một Quận Đạo bầu ra một Bàn Cai Quản để điều hành Nhà Sở ấy. Mỗi Bàn Cai Quản có ít nhứt 12 người Chức việc: 1 Chủ Trưởng, 1 Phó Chủ Trưởng, 1 Thủ Bổn, 1 Phó Thủ Bổn, 1 Từ Hàn, 1 Phó Từ Hàn và 6 Nghi Viên.Trong 6 Nghị Viên, cử ra 2 vị Kiểm Soát.

        Các Chức việc nầy, buộc phải hiến thân trọn đời vào Sở Phước Thiện. Vị Chủ Trưởng phải lựa chọn công cử trong hàng Chủ Sở Lương Điền Công Nghệ.

        Bàn Cai Quản Phước có nhiệm vụ:

        - Chăm lo các cơ sở Lương điền, Công nghệ thuộc Sở Phước Thiện mình đang cai quản.

        - Mỗi tháng họp ít nhất 2 kỳ

        - Nếu xa Thánh Thất thì được nhóm tại nhà sở Phước Thiện.

Mỗi Nhà Sở Phước Thiện trong Quận Đạo phải cử ra một Bàn Cai Quản để lãnh trách nhiệm Chủ Trưởng Nhà Sở ây.

                                                (Đạo Luật Mậu Dần).

BÀN CỔ 盤 古

        Theo truyền thuyết Trung Hoa, Bàn Cổ là tên một ông vua thuỷ tổ của loài người và của cả muôn loài khác, cũng như A đam trong thần thoại Cơ Đốc giáo.

        Tương truyền, khi trời đất đã định vị thì vua Bàn Cổ đã xuất hiện trị đời.

Miền Đông Á, vẫn từ đời Bàn Cổ, xưa đã bao phen Đạo Thánh dẫn nhơn sanh,

Đất Việt Nam, khai những thuở Hồng Bàng, nay mới gặp lúc thuyền linh đưa bến khổ.

                                                (Văn Tế Thượng Phẩm).

BÀN CHÔNG

        Bàn: Vật bằng gỗ hay sắt có mặt phẳng, như Bàn ủi, bàn chải. Chông: Những vật có đầu nhọn, sắc bén.

        Bàn chông là một mảnh gỗ, tre hoặc sắt làm đế, trên có cắm các mũi chông nhọn, dùng để làm bẫy, làm vật chướng ngại, hoặc làm hình cụ tra khảo.

                     Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,

                     Tra tội nhơn, gian giảo ngược ngang.

                                                (Kinh Sám Hối).

BÀN ĐÀO 蟠 桃

        Hay “Hội Bàn Đào”.

        Bàn đào là tên một loại đào Tiên của bà Tây Vương Mẫu, ba nghìn năm mới kết quả.

        Theo sách Hán cổ sử: Vua Hán Võ Đế cầu bà Tây Vương Mẫu, được ban cho bốn quả đào Tiên và cho biết rằng: Cây bàn đào ba ngàn năm mới nở hoa, ba ngàn năm nữa mới kết quả, ăn được một quả thì sống đời đời.

        Theo Đạo Cao Đài, Hội Bàn Đào gọi là Hội Yến Diêu Trì Cung được tổ chức hằng năm tại Toà Thánh vào ngày rằm tháng tám để hiến lễ Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng tôi tưởng tượng một ngày kia, khi tu đắc Đạo, về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, tức nhiên về cảnh Tiên, mới có hạnh phúc, mới có thể Hội Yến Diêu Trì hưởng Tiên Tửu, hưởng Bàn Đào, chớ đâu có ngờ Hội Yến Diêu Trì là hội ngộ các vị Tiên Nương tại mặt thế gian này.

        Xem: Hội Yến Diêu Trì Cung.

Hội Bàn Đào, Diêu Trì Cung,

Phục sinh đào hạnh rượu hồng thưởng ban.

                                                (Kinh Tận Độ).

                     Rượu cúc Bàn Đào chờ hội ẩm,

                     Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh tồn.

                                                (Đạo Sử).

BÀN HOÀN 盤 桓

        Bàn hoàn có nghĩa là băn khoăn, loanh quanh, bịn rịn, hay do dự không dứt khoát, không quyết định.

        Như: Nghe tin lòng bỗng nhiên bàn hoàn, nỗi riêng riêng những bàn hoàn.

                     Vó ký ngàn dâu khuất dặm đường,

                     Bàn hoàn lòng khách giục quày cương.

                                                (Thơ Cao Quỳnh Cư).

BÀN KHÊ

        Khương Tử Nha lúc còn hàn vi ngồi câu cá ở sông Vị tại Bàn Khê. Sau vua Văn Vương nhà Châu đi săn bắn, gặp ông rước về tôn làm thầy. Ông đã giúp cho vua Văn Vương và Võ Vương dựng nên nghiệp nhà Châu.

                     Ông Khương Thượng một lòng nhẫn nại,

                     Câu vận thời ngồi tại Bàn Khê.

                                                (Lược Thuật Toà Thánh).

BÀN LINH

        Bàn: Bàn thờ. Linh: Thuộc người chết, Linh vị.

        Bàn linh hay Bàn vong là một cái bàn thờ tang, đặt trước linh cữu người chết trên đó có thiết đặt một Linh vị và trước Bàn vong có treo một tấm vải trắng có viết chữ Nho, gọi là tấm Phủ nghi.

        Trước nhứt đặt một cái bàn nhỏ, gọi là bàn độc trước Linh cữu để dọn cơm canh cúng tế cho người chết. Kế đó, đặt trước bàn độc một cái ghế nghi, gọi là Bàn linh hay Bàn vong. Trên Bàn linh ở giữa phía bên trong đặt một tấm Linh vị, bên trái Bàn linh là bình hoa, và bên phải là đĩa quả. Hàng kế, ở giữa để một cây đèn vọng. Hàng tiếp theo, ở giữa có một ly nước trà và một ly rượu. Hàng ngoài cùng ở giữa đặt một lư hương và hai bên là cặp chân đèn.

                     Ngùi trông đỉnh hộ mây u ám,

                     Chạnh ngắm bàn linh ảnh rụng rời.

                                                (Thơ Vạn Năng).

BÀN LUẬN

        Bàn: Bày tỏ điều phải trái, hay dở để quyểt định một vấn đề. Luận: Bàn bạc, biện luận.

        Bàn luận là bàn bạc và thảo luận, tức là đưa ra một vấn đề trao đổi qua lại với nhau để có sự phân tích lý lẽ.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tâm hay là Lương Tâm là một vấn đề mà về mặt Đạo người ta đã có nhiều bàn luận đến, nhưng lý thuyết thì vẫn có mà thực hành ít ai để ý đến.

                     Bần Đạo cữ không nên bàn luận,

                     E quá lời sanh giận lòng nhau.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Bàn luận sử kinh từng thoả thích,

                     Xướng hoà thơ phú mặc vui say.

                                                (Thơ Võ Thành Lượng).

BÀN TÍNH

        Bàn: Bàn bạc, là bày tỏ điều phải trái hay dở để quyết định. Tính: Toan tính.

        Bàn tính là bàn bạc và tính toán, tức cân nhắc các mặt lợi hại, nên hay không nên làm.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Từ đây, mỗi lần nhóm Bàn Chủ Sự đặng liệu tính việc chi thì con phải có mặt và y theo lời Thầy dạy, phải có ba Chức sắc Hiệp Thiên Đài có trách nhậm xứng đáng, thì những việc bàn tính mới tiện thi hành.

Thầy đã có lời dặn con về việc phổ độ tha phương thì con cứ đó mà làm. Nhưng trước hết phải hiệp nhau mà bàn tính.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BÀN TRỊ SỰ

        Trong đạo Cao Đài, Bàn Trị Sự là một ban gồm các Chức Việc, có nhiệm vụ quản lý và điều hành công việc Đạo tại một Hương, tức là một Xã Đạo.

        Bàn Trị Sự Hương Đạo gồm có một vị Chánh Trị Sự, được gọi là Đầu Sư Em, làm Đầu Hương Đạo. Dưới Chánh Trị Sự gồm nhiều Phó Trị Sự và Thông Sự. Thường mỗi Ấp Đạo chọ cử ra một Phó Trị Sự và một Thông Sự.

        Phó Trị Sự được gọi là Giáo Tông Em, thay mặt Chánh Trị Sự về hành chánh trong một Ấp Đạo, còn Thông Sự được gọi là Hộ Pháp Em, có nhiệm vụ trông coi về luật pháp của một Ấp Đạo. Tất cả những Chức việc Bàn Trị Sự được gọi chung là Hội Thánh Em.

Bàn Trị Sự nên chọn cử hạng người tài đức, bất luận là thanh niên hay là bậc trưởng lão, miễn vị ấy đặng phần đông tín nhiệm là đủ.

                                                (Đạo Luật Mậu Dần).

BÀN VIẾT

        Bàn: Đồ dùng bằng gỗ có mặt phẳng và chân đứng, để ngồi viết hoặc bày thức ăn, hay đồ đạc.

        Viết: Kẻ, vạch ra chữ.

        Bàn viết, như chữ “Bàn giấy”, là cái bàn dùng để ngồi viết chữ.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Khi nọ, Chí Tôn biểu Bần Đạo lại kệ "bàn viết" có sắp một dãy nhựt trình đặng rút ra hai tờ.

                     Anh xây lưng làm mặt ông hoành,

                     Lên bàn viết vẽ hình đầy sách vở.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẢN CHÂN 本 真

        Bản (Bổn): Cái gốc, cội rễ. Chân (Chơn): Chơn như, trạng thái chân thật của vạn hữu trong vũ trụ.

        Bản chân, hay Bổn chơn là bản thể chân thật thường trụ của vạn pháp. Thực tại tuyệt đối của vạn hữu, trái với thế giới hiện tượng, hư vọng biến đổi vô thường.

        Bản chân chỉ cõi Hằng Sống.

Nhưng đời chưa tỉnh giấc mê

Tìm phương giải thoát trở về bản chân

                                                (Thiêng Liêng Hằng Sống).

BẢN CHẤT 本 質

        Bản (Bổn): Cái gốc, cội rễ. Chất: Bản thể của sự vật.

        Bản chất là chất gốc, tức chất chính của một vật có từ lúc mới sinh, chưa bị ảnh hưởng bên ngoài.

        Nói về sự luân hồi của phàm thể, quyển Giáo Lý của Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn: Cả Cơ chuyển sanh, biến kiếp đều do khí Âm Dương, Ngũ Hành diệu hợp mà nên thể chất và trưởng thành, nghĩa là từ buổi thành hình trong bào thai đến khi ra đời và nên vai nên vóc, lúc nào cũng nhờ khí Âm Dương, Ngũ Hành sanh dục, trưởng dưỡng đến mãn kỳ sanh thọ thì thể xác tiêu tan. Lúc bấy giờ, Tứ Đại ( Địa, Thuỷ, hoả, Phong ) phục huờn nguyên về bản chất tự nhiên của nó, để rồi chuyển hoá hình hài khác nữa.

Các con lại làm sai lạc bản chất, tôn chỉ của nền Thánh giáo.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BẢN LĨNH 本 領

        Bản: Gốc, vốn sẵn có. Lĩnh (lãnh): Cổ áo, trông coi khắp cả.

        Bản lĩnh, hay “Bản lãnh”, nghĩa đen là cái gốc và cái cổ áo, nghĩa là cái cốt, tức đức tính tự quyết định bằng tài sức hay khả năng của một người, không vì áp lực bên ngoài mà thay đổi quan điểm.

        Như: Việc nầy phải giao cho người có bản lĩnh mới giải quyết được.

                     May cũng già tay tràn né dịch,

                     Bằng không bản lĩnh chết nhăn toi.

                                                (Thơ Huệ Ngàn).

BẢN NGÃ 本 我

        Bản: Gốc, vốn. Ngã: Ta, cái ta.

        Bản (Bổn) ngã là cái làm nên tính cách riêng của mỗi người, tức cái ta hay cái tôi.

        Đạo Phật chủ trương thuyết vô ngã, vì con người chỉ là tập hợp của ngũ uẩn, năm uẩn nầy đều thay đổi từng giây từng phút, ở trong năm uẩn đó không có cái gì gọi là Ta, hay của Ta thường còn bất biến cả. Chính vì chúng sanh chấp cái thân ngũ uẩn nầy là bản ngã, tức Ta hay của Ta mà phải chịu cảnh luân hồi sinh tử.

        Diệt được cái Ta là đoạn được cái tư tâm ngã kiến, trừ được vị kỷ mà quây về vị tha., quên mình để làm lợi cho người. Người tu hành nếu không lo diệt bản ngã thì chẳng thể nào bỏ vọng về chơn, đoạn mê theo giác, mà thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có dạy: Muốn vạch con đường cho nhơn sanh thoát nơi biển khổ, tránh đoạ luân hồi, Đức Phật Thích Ca dạy phải diệt cái bản ngã, dứt hết mọi tình lưu luyến, coi sự đời là mộng ảo, đoạn tuyệt sự ham muốn, trừ khử vô minh để về với chân như bất sanh bất diệt.

                     Diệt bản ngã bỏ quyền dụng lý,

                     Khử tư tâm hiệp ý Đại Đồng,

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo).

BẢN THÂN 本 身

        Bản: Gốc, thuộc về phần mình. Thân: Thân mình.

        Bản thân là tiếng dùng để chỉ chính cá nhân, chính ngay sự vật nào đó.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chức Sắc đã hiến thân cho Đạo, quyết xả thân để phụng sự nhơn loại thì bản thân không còn là của mình nữa, phải chết về mặt đời, sống về mặt Đạo, tận tụy với nhiệm vụ, không nệ khó khăn lao nhọc thì mới đúng với sự hiến thân của mình.

                     Cầu tiến bản thân đời hữu dụng,

                     Dinh hư tạo hoá lẽ xoay vần.

                                                (Thơ Thành Đức).

                     Bản thân thường chuộng theo đường chánh,

                     Bẩm tính hằng ghi tránh nẻo tà.

                                                (Thơ Thái Minh).

BẢN XỨ 本 處

        Bản: Gốc, thuộc về phần mình. Xứ: Chốn, nơi, miền.

        Bản xứ là bản thân đất nước (thuộc địa) được nói đến, thường hàm ý coi khinh.

        Như: Vào thời Pháp thuộc, nơi vùng mất an ninh, người bản xứ thường bị nghi ngờ.

Cùng là các nước thân yêu,

Và dân bản xứ thảy đều chung lo.

                                                (Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

BẠN

        Bạn là người thân thiết với mình tuy không phải trong vòng bà con. Như: Bạn bè, bạn học, bạn hàng, giàu đổi bạn sang đổi vợ.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu: Lão mang nặng tình nghĩa cùng một bạn thiêng liêng vì đời lãnh mạng, tạo Đạo đặng cứu chúng sanh mà phải chịu mông trần vào cảnh đọa.

                     Coi gương trước Thánh Hiền ghi lại,

                     Kết bạn nhau đạo ngãi làm sao.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     Gái lớn lên giữ chữ phụ tùng,

                     Trai chớ khá buông lung theo chúng bạn.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẠN BÈ

        Bạn: Người thân với mình nhưng không phải là bà con. : Phe, đảng.

        Bạn bè là những người cùng kết thân với nhau.

        Nói về ý nghĩa của ngày Xuân, Đức Thượng Sanh có dạy: Ngoài ra, người ta chúc lành cho thân quyến, bạn bè và đi đến Chùa, Miếu, Đền thờ để cầu phúc cho gia tộc, rồi thì tính toán đường lối xoay trở trong nghề nghiệp để thi thố cho có kết quả tốt đẹp, khi bắt tay vào công việc sẽ tới.

                  Rằng quyền thay đổi căn nhân sự,

                  Gia đạo hưng suy nghĩa bạn bè.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

BẠN HÀNG

        Bạn: Người quen có quan hệ với nhau việc mua bán. Hàng: Sản phẩm để bán, nơi bán hàng.

        Bạn hàng là người cùng buôn bán.

        Bạn hàng còn dùng để chỉ khách hàng quen, trong quan hệ với người bán hàng.

        Như: Chị ta là bạn hàng ở chợ.

                     Mắt tinh đời độ khách dân, quan,

                     Hèn sang cũng bạn hàng đồng thể.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Nhiều bạn hàng làm bảnh nói hơn,

                     Mình vui vẻ đừng hờn lại trọng.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẠN LỮ 伴 侶

        Bạn: Người quen biết và có quan hệ gần gũi, coi nhau ngang hàng. Lữ: Bạn bè.

        Bạn lữ tức là cùng trang lứa làm bạn bè với nhau.

                  Mãn kiếp những nỗi mình, mình xử,

                  Nào mong chi bạn lữ giúp nên.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                  Dầu kén chọn vào hàng bạn lữ,

                  Nên cho em hạng thứ trên người.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẠN TÁC

        Bạn: Người quen biết và có quan hệ gần gũi, coi nhau ngang hàng. Tác: Tuổi tác.

        Bạn tác tức là bạn bè cùng tuổi tác, cùng trang lứa với nhau.

        Bia kỷ niệm Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Ô hô! Thiên cơ tiền định người dễ thấu đâu, những ngỡ tay rường cột sum vầy cùng bạn tác, chung lo đắp nền Đạo giữa trời Nam, nào hay đâu số mạng bốn tuần dư dâng Thánh chỉ trở về Kinh Bạch Ngọc.

                  Tánh ngoan ngạnh không vì cô bác,

                  Thói lăng loàn bạn tác khinh khi.

                                                (Kinh Sám Hối).

Anh em bạn tác vầy đông,

Xô thành cũng ngã, lấp sông cũng bằng.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                  Mình dầu đồng bạn tác cùng quan,

                  Đừng hổ phận bần hàn cha mẹ.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẠN TRĂM TUỔI

        Bạn: Người thân ngang hàng, hợp tình ý nhau. Trăm tuổi: Như chữ Trăm năm, chỉ trọn đời người.

        Bạn trăm tuổi, như chữ “Bạn trăm năm”, là chỉ vợ hoặc chồng, trong quan hệ gắn bó trọn đời.

                     Bạn trăm tuổi thân hoà làm một,

                     Dầu sang hèn xấu tốt cũng duyên.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẠN VÀNG

        Bạn: Bè bạn, người có quan hệ gần gũi, ngang hành nhau, hợp tình ý. Vàng: Chỉ sự quý báu.

        Bạn vàng, do chữ “Kim bằng 金 朋”, dùng để chỉ người bạn quý và thân thiết.

                     Thủ túc tình thâm ấy bạn vàng,

                     Đừng phân anh tiện với em sang.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Mừng gặp bạn vàng tay siết chặt,

                     Mê hồi tiệc ngọc khách chưa rồi.

                                                (Thơ Vạn Năng).

BÀNG CỬ 旁 舉

        Bàng Cử là hiệu của Nhạc Phi.

        Nhạc Phi là một danh tướng đời nhà Tống, sanh ở huyện Thang Âm, làm đến chức Đại Nguyên Soái đời vua Cao Tông.

        Ông một lòng tận trung báo quốc, đem quân đi đánh thắng nước Liêu, bảo vệ bờ cõi, nhưng vua Cao Tông hôn ám, dùng kẻ gian thần là Tần Cối làm Tể Tướng, để Tần Cối gièm pha hãm hại giết chết Nhạc Phi.

        Xem: Nhạc Phi.

                     Tam ưu Bàng Cử trắng đầu non,

                     Mua lấy chức quan đức phải mòn.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BÀNG MÔN 傍 門

        Bàng: Một bên. Môn: Cửa.

        Bàng môn là cửa bên hông, chớ không phải cửa chánh. Ý nói không phải Đạo Chánh.

        Bàng môn là chỉ các tôn giáo không chơn chánh, đưa người tu đến chỗ lầm lạc, không thành Chánh quả, không giải thoát khỏi luân hồi.

        Thánh Giáo Đức Thích Ca Như Lai có dạy: Phép hành đạo Phật giáo dường như ra sái hết, tương tợ như gần biến Tả Đạo Bàng Môn. Kỳ truyền đã thất, chư sơn chưa hề biết cái sai ấy do tại nơi nào, cứ ôm theo luật Thần Tú, thì đương mong mỏi về Tây phương mà cửa Tây phương vẫn cứ bị đóng, thì cơ thành Chánh quả do nơi nào mà biết chắc vậy.

Phước Thiện nuôi nấng tinh thần,

Phước Thiện cứu kẻ lạc gần bàng môn.

                                                (Thất Nương Giáng Bút).

Phá cho Thánh giáo nát tan,

Dẫn người lương thiện vào đàng Bàng môn.

                                                (Nguyễn Trung Trực Giáng).

                     Chơn thành đạo đức vô thinh sắc,

                     Giả tướng bàng môn trọng hữu hình.

                                                (Thơ Thông Quang).

BÀNG QUAN 旁 觀

        Bàng: Bên cạnh, bên ngoài. Quan: Xem, xem xét.

        Bàng quan là đứng ngoại cuộc mà nhìn, tức chỉ người đứng bên ngoài mà xem, coi là không dính líu tới mình, không dự gì tới.

        Như: Có thái độ bàng quan với thời cuộc.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bởi họ hiểu thấu huyền vi mầu nhiệm sống chết còn mất của họ, nếu lấy đạo đức làm căn bản bảo sanh cho họ, thì chúng ta bất quá giống như kẻ bàng quan kia vì thấy một nhơn vật họ không biết cái sống của họ, họ chưa định giá trị kiếp sống của họ hay là phương sống của họ

Người bàng quan còn phải xử trí như thế, huống chi ông bà là ruột thịt của cha mẹ mà chúng ta không tôn kính sao?

                                                (Giáo Lý).

BÀNG QUYÊN TÔN TẪN

龐 絹 孫 儘

        Bàng Quyên là người nước Nguỵ đời Chiến Quốc, cùng Tôn Tẫn học một thầy là Quỷ Cốc Tiên Sinh, nhưng thua tài Tôn Tẫn, nên thường tìm cách hãm hại.

        Bàng Quyên giả mạo chứng cớ, cáo buộc Tôn Tẫn tư thông nước Tề để hại nước Nguỵ. Huệ Vương nghe lời sàm tấu của Bàng Quyên, bắt Tôn Tẫn chặt chân và thích vào trán bốn chữ “Tư thông ngoại quốc”.

        Bàng Quyên làm quân sư cho Nguỵ Huệ Vương, cầm quân đánh đâu thắng đó nên sinh ra kiêu căng ngạo mạn. Sau Tôn Tẫn giúp Tề, đem quân dụ Bàng Quyên tới Mã Lăng rồi cho phục binh bắn chết theo lời thề.

        Xem Tôn Tẫn.

                     Bàng Quyên nỡ chặt chân Tôn Tẫn,

                     Đã nhờ người tiến dẫn Nguỵ Vương.

                                                (Báo Ân Từ).

BẢNG

        Bảng là vật có mặt phẳng, làm băng ván mỏng, hay bện bằng tre, dùng để viết chữ hoặc dán những gì cần nêu cho mọi người xem.

        Như: Bảng viết, bảng yết thị, bảng vàng, kim bảng.

        Thánh giáo Thầy có câu: Ôi! Thầy vì mấy chục ức nguyên nhân, không nỡ để cho ngôi phẩm tan tành, chớ lấy luật Thiên thơ thì không một ai dự vào kim bảng.

Linh Tiêu Điện, bảng danh nêu,

Nguyên căn đẹp vẻ mỹ miều cao thăng.

                                                (Kinh Tận Độ).

                     Dùng kiểng vật đá cây làm bảng,

                     Dạy đếm cho biết đặng đến mười.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẢNG HỔ

        Bảng: Vật bằng ván mỏng dùng để viết tên những người thi đỗ. Hổ: Cọp.

        Bảng hổ, do chữ “Hổ bảng 虎 榜”, là bảng có vẽ hình con hổ, dùng để ghi tên hay niêm yết những người thi đỗ.

        Đời nhà Mãn Thanh nước Trung Hoa chỉ võ khoa là hổ bảng.

        Ở Việt Nam, Long bảng (Trên bảng có vẽ rồng) đề tên những người đậu Tiến sĩ; Hổ bảng (Vẽ cọp) đề tên những người đậu Cử nhân; Mai bảng (Vẽ cây mai) đề tên những người đậu Tú tài.

                     Đội niếp Tô Chương nêu bảng hổ,

                     Mang bầu Nhan Tử chiếm khoa tràng.

                                                (Thơ Thái Đến Thanh).

                     Mong thấy vinh quy trường khổ hạnh,

                     Chờ xem bảng hổ hội lương tài.

                                                (Thơ Hoàn Nguyên).

BẢNG LẢNG

        Bảng lảng là lạnh nhạt, lơ là, thờ ơ, không để tâm chú ý tới. Như: Nó bảng lảng như người không quen biết.

        Bảnh lảng còn có nghĩa là lờ mờ, không rõ nét, hoặc bát ngát, buồn bâng khuâng.

                     Trời chiều bảng lảng bóng thiều quang,

                     Tiếng trống thu không giục khách nhàn.

                                                (Thơ Tiếp Pháp).

BẢNG NGỌC

        Bảng: Tấm bảng dùng để yết thị danh tánh người thi đỗ, hay người có công. Ngọc: Tiếng tôn xưng, quý báu.

        Bảng ngọc, như chữ “Ngọc bảng 玉 榜”, dùng để chỉ bảng niêm yết tên những người đỗ khoa thi, hoặc những người tu đắc đạo.

                     Phong tước Thiên Tiên bảng ngọc đề,

                     Giác rồi trở lại độ người Mê,

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo).

BẢNG PHONG THẦN

        Bảng Phong thần, như chữ “Phong thần bảng 封 神 榜”, là một bảng danh sách ghi tên họ những người tu hành, thiếu phẩm hạnh, thiếu công đức để vào hàng Thánh, Tiên và Phật vị, mà phải chịu vào hàng phẩm Thiên Thần.

        Bảng Phong thần do Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn lập ra vào thời Nhị Kỳ Phổ Độ thuộc nhà Châu bên Trung Hoa. Khương Tử Nha thay mặt cho thầy là Nguơn Thỉ Thiên Tôn, chiếu theo danh sách trong Bảng Phong thần mà sắc phong cho chư chơn linh các tướng sĩ hoặc các vị Đạo sĩ đã chết vào hàng phẩm Thần vị.

                     Lập bảng Phong Thần ta chủ khảo,

                     Càn Khôn biết mặt gậy cùng nai.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

                     Đường tu ví chẳng dày công đức,

                     Nhập bảng Phong thần khó nổi binh.

                                                (Thơ Thái Đến Thanh).

BẢNG VÀNG

        Bảng: Tấm bảng dùng để yết thị danh tánh người thi đỗ, hay người có công. Vàng: Thếp vàng.

        Bảng vàng, như chữ “Kim bảng 金 榜”, tức là bảng có thếp vàng, đề tên những vị tân khoa đỗ Tiến sĩ trong thời khoa cử ngày xưa của Việt Nam.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Sanh ra nơi trần thế, người hữu học có công thập niên đăng hoả thì ai cũng muốn chen vào trường ốc, mong chiếm bảng vàng hầu lập nên sự nghiệp vẻ vang, làm đẹp mặt nở mày cho cha mẹ.

        Xem: Kim bảng.

                     Nông nả Long vân chờ gặp hội,

                     Bảng vàng tên tạc thoả tình thâm.

                                                (Thơ Hoàng Nguyên).

                     Bảng vàng tên tuổi đề vang dội,

                     Trường đạo công phu gắng miệt mài.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

BÁNH

        1.- Bánh là món ăn chế biến bằng các thứ bột, thường có chất ngọt, mặn, béo.

        Như: Bánh chưng, bánh bao, bánh bèo, nhân bánh, gói bánh.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Cũng như đứa con trong nhà thấy cha có bánh nhiều hơn tức phải bỏ má. Ông cha họ có đủ tài đức đủ quyền bảo vệ họ, họ bợ đỡ nương theo đặng sống. Làm mẹ bất tài thì chúng phải nương sống theo cha, có gì là lạ.

                     Chị làm bánh cậy nhồi mớ bột,

                     Trộn một hồi thành lấy cốt trùng.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bánh là bộ phận của xe hoặc máy có dạng dĩa tròn lắp nan hoa, quay quanh một trục để chuyển động.

        Như: Bánh xe, bánh trớn, bánh lái tàu thuyền.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Tự cổ chí kim, vì không giữ mình được trong sạch cho nên con người phải chịu làm nô lệ cho xác thịt để cho dục vọng lôi cuốn gây thành tam nghiệp tức là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, phải bị chìm đắm trong vòng sanh tử luân hồi, chẳng khác chi tự mình trói buộc vào một cái bánh xe, cứ quay cuồng mãi mãi không biết bao giờ tháo mở được.

                     Dẫy xe trâu Côn Lôn trỗi bánh,

                     Lý Lão Quân mong lánh phong trần.

                                                (Kinh Thế Đạo).

BÁNH ẾCH ĐI BÁNH QUY LẠI

        Bánh ếch đi: Bánh ếch cho đi. Bánh quy lại: Bánh quy trả lại.

        Bánh ếch đi, bánh quy lại là một câu tục ngữ Việt Nam, khuyên người ta nên giữ sự công bằng, hễ tặng bánh ếch đi thì phải gởi bánh quy trả lại.

                     Bánh ếch mãi đi…càng khó nghĩ,

                     Bánh quy không lại…cũng hơi phiền.

                                                (Thơ Hoàng Nguyên).

BÁNH LÁI

        Bánh: Bộ phận có thể điều khiển chuyển động xoay tròn trên một trục.

        Lái: Bộ phận dùng để điều khiển các phương tiện vận tải, như xe, tàu.

        Bánh lái là bộ phận xoay được dùng để đổi hướng di động của phương tiện vận tải như xe, tàu, thuyền…

Tại ngôi Bắc Đẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Đẩu cho rõ ràng.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BÁNH TRÁI

        Bánh: Món ăn chế biến bằng bột, có hình khối, thường là ngọt hay mặn béo. Trái: Quả.

        Bánh trái là nói chung là các loại bánh để ăn.

        Như: Cửa hàng có bán nhiều loại bánh trái.

                     Công là hay học chuyện bá xàm,

                     Trăm bánh trái, bao hàm nhà cửa.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÁNH VẼ

        Bánh: Món ăn chế biến bằng bột, có hình khối, thường là ngọt hay mặn béo.

        Vẽ: Dùng bút mà tả hình trạng các vật như thực.

        Bánh vẽ là hình vẽ của chiếc bánh, thấy mà ăn không được, thường dùng để ví cái trông có vẻ tốt đẹp, nhưng là cái không có thật, lừa bịp.

Đạo trễ một ngày thì hại cho chúng sanh một ngày, mà mỗi đứa đều gây ác cảm, làm cho mối Đạo thành ra bánh vẽ, thì chừng nào Đạo trọn thành nơi đây?

BÀNH THÀNH 膨 城

        Bành Thành là tên đất ngày xưa của nước Tàu.

        Vào đời Xuân Thu, Bành Thành là một ấp của nước Tống. Sau nước Tần đặt thành huyện, nay là Từ Châu Thị, thuộc tỉnh Giang Tô.

                  Thiền cao chưa đủ đỡ muôn linh,

                  Như thuở Hạng Vương ở Bành Thành.

                                                (Đạo Sử).

BÀNH TRƯỚNG 澎 漲

        Bành: Nước chảy mạnh. Trướng: Nước dưới sông rạch lớn lên, đầy dẫy lên.

        Bành trướng là phồng to ra.

        Bành trường còn có nghĩa là dương rộng ra, hay mở rộng khu vực tác động ra.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trong lúc khói lửa chiến tranh còn bao trùm đất nước, nền Đại Đạo tuy không được bành trướng khả quan nhưng nhờ sự trung thành và sự tận tâm phục vụ của phần đại đa số Chức sắc nơi Trung ương và Địa phương, nên phương diện tinh thần của Đại Đạo vững mức cao siêu, cái danh liêm khiết của Hội Thánh cũng như chí hy sinh của Chức sắc được các giới trí thức ngoài mặt đời ngợi khen và kính nể.

Bần Đạo hôm nay mới đặng cái quyền và năng lực bành trướng như thế nầy.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BẢNH

        Bảnh là sang, đẹp, tài giỏi có khả năng hoàn hảo, vượt trội hơn người.

        Như: Anh ta ăn diện rất bảnh, tay lao động bảnh, làm mặt bảnh.

                     Nhiều bạn hàng làm bảnh nói hơn,

                     Mình vui vẻ đừng hờn lại trọng.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

Bởi gà là đứa vô suy,

Tưởng đâu mình bảnh nên thì tự cao.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BAO

        1.- Bao là ít hay nhiều, lâu hay chóng. Như: Biết bao mà kể, xiết bao thảm sầu, bao điều tội lỗi.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Xưa các Thánh làm cho nên mối Đạo biết bao là công trình ngày tháng!

                     Lợi danh đã đọa biết bao người,

                     Nhiều kẻ nay còn ý dể ngươi.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Bỏ đức bỏ nhân bao kiếp đọa,

                     Khuyên con giữ Đạo đến cùng Thầy.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

        2.- Bao 包 là bọc ở ngoài, cho chứa được các vật, tóm quát cả. Như: bao bọc, bao phủ, bao quanh, bao dung.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Tôi cầu xin cho trong Cửa Đạo chúng ta thắt chặt dải đồng tâm càng ngày thêm khắng khít, xoá bỏ những hờn nghịch nhỏ nhen, nên coi Đại nghiệp của Đạo là quý trọng đễ cùng nắm tay dìu dắt nhau vẹt ngút mây mù cứ vẫn bao phủ quanh vùng Thánh địa hầu đi đến một giai đoạn vui vẻ hơn.

                     Một làn ác khí bao ràng rịt,

                     Muôn xác tinh ma nhảy dập dìu.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

        3.- Bao 褒 là khen, không dùng một mình. Như: Bao biếm (khen chê), Bao thưởng (khen và ban thưởng).

        Xem: Bao biếm.

Tán tụng công đức hiền nhân,

Bao biếm thiện ác, cân phân rõ ràng.

                                                (Báo Ân Từ).

BAO BIẾM 褒 貶

        Bao: Khen. Biếm: Chê.

        Bao biếm là khen và chê.

        Người đời sau, khi nói về quyển kinh Xuân Thu của Đức Khổng Tử có câu như sau: Nhất tự chi bao, vinh ư hoa cổn; nhất tự chi biếm, nhục ư phủ việt 一 字 之 褒, 榮 於 華 袞, 一 字 之 貶, 辱 於 斧 鉞, nghĩa là một chữ khen, thì vinh hơn cái áo hoa cổn của vua ban cho, một chữ chê thì nhục hơn là tội bị rìu búa.

                     Hơn thua trối mặc đời bao biếm,

                     Nửa kiếp dầu qua hết lấn chen.

                                                (Đạo Sử).

Xuân Thu bao biếm rõ ràng,

Trung Dung luận thuyết bảo toàn thánh tâm.

                                                (Thơ Huệ Phong).

BAO CÔNG CHẨN BẦN

包 公 賑 貧”.

        Bao Công còn có tên là Bao Chửng, tên tự là Văn Chính, người đất Hiệp Phì, phủ Lư Châu, tỉnh Giang Nam Trung Quốc, con của ông viên ngoại Bao Hoài, và bà Châu Viện Quân.

        Lúc nhỏ Bao Công là đứa trẻ thông minh tột bực, học đâu biết đó, nổi tiếng là thần đồng. Ông đậu Tiếng sĩ được vua Tống Nhân Tông bổ làm Tri Huyện Định Viễn, thuộc phủ Phụng Dương, sau vua triệu về kinh phong chức Lệnh Doãn Khai Phong phủ, rồi thăng lên chức Long Đồ Các Đại Học Sĩ.

        Bao Công là người thanh liêm chính trực, giữ gìn luật pháp rất nghiêm minh, nên được vua ban cho Ngự Trát Tam đao là: Long đao, Hổ đao, Cẩu đao, để trị tội những hoàng thân quốc thích hay các đại thần, các nhà quyền quý phạm tội và sai Ông đi tra xét vụ tham những việc phát chẩn ở xứ Thần Châu.

        Nguyên đất Thần Châu bị hạn ba năm, vua bèn sai An Lạc Hầu Bàng Dực là con Thái Sư Bàng Hồng, đến xứ ấy chẩn bần. Bàng Dực đến nơi không phát chẩn mà lại còn húng hiếp dân chúng và cưỡng bức gái lành, làm cho dân tình điên đảo.

        Xứ Thần Châu đã bị hạn hán nhiều năm, dân tình điêu đứng, sứ thần của triều đình đến chẳng những không cứu giúp, trái lại còn tham nhũng, hạch sách, cưỡng bức gái lành, làm cho dân tình nơi đó càng thêm khốn đốn. Bao Công đến nơi thấy tội của Bàng Dực rõ ràng, bèn bắt hắn, lấy Long đao xử trảm. Rồi ông thay mặt cho nhà vua chẩn bần và an dân, nên dân chúng nơi đó cảm cái ơn đức của Bao Công vô hạn.

        Bên ngoài hành lang Báo Ân Từ về phía nữ phái có bức tranh vé hình “Bao Công chẩn bần 包 公 賑 貧”.

        1.- Bao Công:

                     Nhờ có Bao Công tài phá án,

                     Cẩu đầu đao chém hạng dân thường.

                                                (Thơ Hoàn Nguyên).

        2.- Bao Công chẩn bần:

Thần Châu hạn hán khổ dân,

Bao Công được phái chẩn bần cứu nguy.

                                                (Thơ Thái Huệ).

BAO CHỬNG 包 拯

        Bao Chửng, tên gọi là “Bao Công 包 公”, tự là Hy Nhơn, người ở đất Hiệp Phì đời nhà Tống. Ông là người có tiếng xét án giỏi, vụ án dầu bí mật và bao lâu, ông đều xử ra manh mối.

        Bao Chửng là người rất ngay thẳng, giữ gìn luật pháp rất nghiêm minh, nên những kẻ quyền quý hay hoạn quan đều rất nể sợ.

        Bao Chửng làm đến chức Khu Mật Phó Sứ, từng xử nhiều vụ án ly kỳ được chép ở sách “Bao Công Kỳ Án 包 公 奇 案”.

        Xem: Bao Công.

                     Ví gặp Quách Hoè bày quỷ kế,

                     Há thua Bao Chửng trổ thiên tài.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

BAO DUNG 包 容

        Bao: Trùm lên, che chở, bênh vực. Dung (dong): Tha thứ, không chấp.

        Bao dung hay “Bao dong” là chỉ người có lòng rộng lượng với mọi người, hay tha thứ bảo bọc kẻ khác.

        Như: Đức Chí Tôn là một người cha có lòng rộng lượng bao dung.

                  Tập tánh con quảng đại bao dung,

                  Hay thương mến thuận cùng bạn tác.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BAO ĐÀNH

        Bao: Ít hay nhiều, lâu hay chóng. Đành: Bất đắc dĩ mà phải chịu vậy.

        Bao đành có nghĩa là sao đành, đành lòng nào, nỡ lòng nào.

        Như: Thấy đứa con hư lòng cha bao đành từ bỏ.

                     Người phụ nhơn trí hoá hẹp hòi,

                     Mình quân tử bao đành ngồi ngó dại.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Bao đành sớm tách miền Tiên cảnh,

                     Nỡ để nhơn sanh chốn Nghiệt đài.

                                                (Thơ Thượng Trí Thanh).

BAO ĐỒNG

        Bao đồng là dông dài, linh tinh, lung tung, không đi vào trọng tâm cái cần nói, hoặc việc cần làm.

        Thí dụ: Thôi đi làm đi ở đó mà nói chuyện bao đồng.

        Bao đồng còn nghĩa khác là có tính chất khái quát, chung nhất.

                     Hay lo những chuyện gọi bao đồng,

                     Một tánh mạng mình tính chẳng xong

                                                (Đạo Sử).

BAO GIỜ

        Bao: Từ dùng để chỉ một mức độ, số lượng, hoặc khoảng thời gian nào đó không rõ. Giờ: Chỉ thời gian.

        Bao giờ là khi nào. Bao giờ là tiếng dùng để hỏi một khoảng thời gian nào đó không rõ.

        Thánh giáo Đức Chơn Cực Lão Sư có câu: Đấng Chí Tôn, vì thương dân tình nơi đây, đã khổ tâm gieo Đạo, đem chiếc thuyền cận bến để dìu dắt vào chỗ bình địa đặng tự tại thung dung, mà vì chưa hiểu thấu căn nguyên, khổ bao giờ trông thoát?

Trái oan nào khác mối tơ,

Rối rồi không gỡ, bao giờ cho ra.

                                                (Kinh Sám Hối).

BAO HÀM 包 含

        Bao: Trùm ra ngoài. Hàm: Chứa đựng.

        Bao hàm là bao trùm, tức chứa đựng bên trong, mang bên trong (nói về cái nội dung trừu tượng).

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Hai chữ “Tu thân” không phải chỉ có một ý nghĩa tiêu cực là sửa trị nết xấu mà là bao hàm một chương trình rộng rãi trau dồi tài đức.

                     Thập Thiên can bao hàm vạn tượng,

                     Tùng Địa Chi hoá trưởng Càn Khôn.

                                                (Phật Mẫu Chơn Kinh).

                     Công là hay học chuyện bá xàm,

                     Trăm bánh trái, bao hàm nhà cửa.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BAO HẮC TỬ 包 黑 子

        Bao Hắc Tử là tục danh của Bao Công, một ông quan cương trực, thanh liêm, nổi tiếng xử nhiều vụ án ly kỳ được chép ở sách “Bao Công Kỳ Án 包 公 奇 案”.

        Ông chẳng những xử các vụ án do người thế gian đầu cáo, mà còn được các vong hồn ở Diêm Cung nhờ tra xét. Điển hình là vụ án của Y Thị.

        Y Thị tên thật là Trịnh Nương, vợ của quan Ngự sử Trần Quốc Thanh. Y Thị là người thẳng thắng, cương trực, hay ghét kẻ gian thần, thường khuyên can chồng đừng nên theo phe bọn gian thần là Thái Sư Bàng Hồng để mưu hại hai tướng trung thần là Dương Tôn Bảo và Địch Thanh.

        Một hôm, vì khuyên mãi không được, Y Thị nặng lời khiến chồng tát tai, quá uất ức nàng thắt họng tự tử. Trần Quốc Thanh chẳng thương tiếc, lại sai gia nhân khiêng xác Y Thị vùi vào chỗ bùn lầy, rồi chọn một đứa a hoàn có nhan sắc lên thế nàng để làm phu nhân. Hồn Y Thị xuống Diêm đình đầu cáo, Diêm Vương dạy Y Thị về kiện nơi Khai Phong phủ của Bao Công.

        Bao Công đi chẩn bần nơi xứ Thần Châu trở về, dọc đường hồn Y Thị hoá luồng khí lạnh chận lại, rồi đến đêm báo mộng cho Bao Công biết.

        Hồn Y Thị quỳ trước Bao Công cáo rằng: Thiếp thác là tại thiếp, nhưng chồng thiếp không nghĩ đến tình nghĩa, không nghĩ đến phẩm mạng phụ phu nhân của triều đình, đem vùi thây thiếp nơi bùn lầy nước đọng, còn đem một con tỷ tất lên thay thiếp. Chồng thiếp theo bọn gian thần là Thái Sư Bàng Hồng mưu hại hai tướng trung can là Dương Tôn Bảo và Địch Thanh, nếu Lão gia không về triều ngay thì hai vị tôi thần lương đống sẽ không còn. Nghe xong, Bao Công ra lịnh về triều ngay trong đêm đó. Sáng hôm sau, Bao Công tâu hết mọi việc cho vua nghe, rồi mượn ba món bửu bối đem đến nơi vùi thây Y Thị để cứu sống nàng.

        Y Thị sống lại, Bao Công lập hình án xử trảm Trần Quốc Thanh và trưng nhiều bằng cứ để minh oan cho hai tướng Dương Tôn Bảo và Địch Thanh.

                     Bao Hắc Tử tiếp hồn Y Thị,

                     Cáo đứa gian hại vị trung thần.

Trừ gian cứu nước hại dân,

Đáng danh hiền triết phu nhân liệt vào.

                                                (Báo Ân Từ).

BAO LA 包 羅

        Bao: Trùm ra ngoài. La: Cái lưới.

        Bao la là rộng lớn đến mức như vô cùng tận.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cây “giác ngộ” chỉ mọc giữa đám đất đau khổ (vì bị dục vọng lôi cuốn) lấy chúng sanh làm gốc, lấy lòng thương bao la làm nước tưới mới có hoa giữa trí tuệ.

Nước non chớn chở bao la,

Quyết tìm một gậy mệt già viếng con.

                                                (Diêu Trì Kim Mẫu).

BAO LĂM

        Bao: Nói tắt của “Bao nhiêu”, chỉ một số lượng nào đó, nhưng không xác định.

        Bao lăm là bao nhiêu, từ dùng để chỉ một lượng rất ít, không đáng kể.

        Bao lăm còn có nghĩa chẳng đáng bao nhiêu, chẳng được bao nhiêu.

                     Ngọc lành đáng giá biết bao lăm,

                     Để mẻ thì ai chẳng tiếc thầm.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Làm lụng té bao lăm của cải,

                     Để cho con là ngãi cùng con.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BAO LÂU

        Bao: Ít hay nhiều, lâu hay chóng. Lâu: Phải nhiều thời giờ, trái với mau (chóng).

        Bao lâu là bao nhiêu lâu, tức bao nhiêu thời gian.

        Thánh giáo Thầy có câu: Đạo Trời soi gương rạng, khá biết tỉnh mộng hồn, kiếp sanh chẳng bao lâu, đừng đợi đến ngày cùng tận.

                     Trần khổ dầu ai chơn muốn lánh,

                     Ngày thành Chánh quả có bao lâu?

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Có thuở mạng Trời đưa sắc đến,

                     Nên giềng Đạo cả chẳng bao lâu.

                                                (Đạo Sử).

BAO LƠN

        Hay “Bao Lơn Đài”.

        Bao lơn: Phần nhô ra ngoài hiên, hoặc ngoài sàn gác, xung quanh có lan can. Đài: Cái đài.

        Bao Lơn Đài là một cái đài xây theo hình bán nguyệt, có lan can, đưa ra mặt tiền của Toà Thánh Tây Ninh.

        Trước thành bao lơn có đắp các tượng hình: Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục, tượng trưng sự sinh hoạt con người với ý nghĩa nơi Toà Thánh là nơi tập trung các chơn linh trên cõi thế, dù sinh tiền làm nghề gì cũng vậy, phút cuối cùng phải về đây xem tội phước.

        1.- Bao lơn:

                     Khi bước vào trước sân Tòa Thánh,

                     Hãy trông lên trên cánh bao lơn.

                                                (Lược Thuật Toà Thánh).

        2.- Bao Lơn Đài:

Du khách thấy xây hình bán nguyệt, gọi là Bao Lơn Đài.

                                                (Toà Thánh Tây Ninh).

BAO NẢ

        Bao nả là tiếng thường dùng trong câu hỏi, có nghĩa là bao nhiêu, chừng nào.

        Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm trong Thánh Ngôn Sưu Tập có đoạn: Nên nhớ rằng, chơn lý vẫn là nguồn khai thác cho U Minh Giới mà cửa Hiệp Thiên Đài vốn phải lắm công lao. Vì cớ cả mấy em dầu cho Phước Thiện cũng là Hội Thánh cứu khổ của Hiệp Thiên Đài, thì thử hỏi trọng trách bao nả.

                     Ví bằng ai hỏi sao bao nả?

                     Rằng trẻ noi sau biến hoá già.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lời phiền đổi lại tiếng than,

Thương kia bao nả lại càng thêm thương.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     Nghĩ cõi Bồng Lai xưa mấy mặt,

                     Còn tôi bao nả dám làm hơi?

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

BAO NHIÊU

        Bao: Tiếng dùng để chỉ mức độ, số lượng hoặc khoảng thời gian nào đó không rõ.

        Bao nhiêu là không biết nhiều hay ít, tức số lượng nào đó không rõ chính xác.

        Bao nhiêu còn có nghĩa là không biết chừng nào.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn: Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi. Như không làm đặng thế nầy thì tìm cách khác mà làm âm chất, thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao.

Dưới Ngọc Hư, kể bao nhiêu,

Thiêng Liêng các Đấng lập triều trị dân.

                                                (Kinh Thế Đạo).

Mang câu thất hiếu đã đành,

Bao nhiêu công quả biển gành rã tan.

                                                (Thất Nương Giáng Bút).

                     Xuân mệt mờ bao nhiêu cảnh ủ,

                     Cụm rừng tòng lá xủ tranh sầu.

                                                (Thanh Tâm Tài Nữ).

BAO NHIÊU CÔNG QUẢ BẤY NHIÊU PHẦN

        Bao nhiêu công quả: Lập công quả được bao nhiêu.

        Bấy nhiêu phần: Được hưởng tương ứng với phần công quả đã làm.

        Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần ý muốn nói máy Trời rất chí công, nếu mình làm công quả ở cõi thế gian được bao nhiều thì ngày sau về cõi Thiêng liêng mình sẽ được hưởng bấy nhiêu, tức là tương ứng với số công quả do mình tạo nơi thế gian.

                     Muôn đức ngàn lành không sót một,

                     Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BAO PHEN

        Bao: Từ kết hợp để chỉ mức độ, số lượng hoặc khoảng thời gian nào đó. Phen: Lần, lượt.

        Bao phen là bao lần, bao lượt.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Ôi! Thầy cực nhọc bao phen, mà nay con đường ngó lại còn dài thăm thẳm. Thầy chỉ mong mỗi con tỉnh hồn thức trí, ngó lại bước đường sái trước kia mà lập tâm làm việc chánh đáng, theo lần Thầy, thì sự may mắn ấy không còn chi cho Thầy vui hơn nữa.

                     Trượng tài khinh nghĩa đã bao phen,

                     Làm mất số sang chịu khó hèn.

                                                (Đạo Sử).

                     Nào là lúc ăn cay uống đắng,

                     Nào là khen rồi mắng bao phen.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BAO PHỦ

        Bao: Bọc ở bên ngoài. Phủ: Che đậy lại

        Bao phủ là bao bọc và phủ kín ở bên ngoài.

        Trong Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp có câu: Ấy vậy, ta có một tinh thần, một phương pháp duy nhất của Đức Chí Tôn đã để trong mình ta, nó là bộ Thiết giáp đang bao phủ lấy ta, ta mang bộ Thiết giáp ấy vô, mấy em cố gắng mỗi em đều sắm bộ Thiết giáp ấy tức nhiên là đạo đức của mấy em đó vậy.

                     Kìa lố bóng hồng ân bao phủ,

                     Cả thế gian đầy đủ đạo mầu.

                                                (Kinh Thế Đạo).

                     Xin có tưởng ruột rà máu mủ,

                     Cõi Hư linh bao phủ ân hồng.

                                                (Kinh Thế Đạo).

                     Cao sang chẳng mượn của thường tình,

                     Bao phủ mình con chút khí linh.

                                                (Đạo Sử).

BAO QUẢN

        Bao: Lâu mau, xa gần. Quản: Ngại.

        Bao quản là một từ Nôm, có nghĩa là không quản ngại, hay không nề hà.

        Như: Làm việc thiện bao quản gian lao khổ nhọc.

                     Lòng lành là vốn có căn xưa,

                     Bao quản lợi danh chẳng dám chừa.

                                        (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Biển bắc mặc dầu cơn sóng bủa,

                     Non nam bao quản đám mây vần.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

                     Thanh bạch quyết gìn ra sức lái,

                     Sắt son bao quản nhọc công dò.

                                                (Thơ Thượng Sanh).

BAO TỶ 褒 姒

        Bao Tỷ hay Bao Tự là một người con gái đẹp đời Chiến Quốc, do Bao Hồng Đức xuất vải lụa mua để tiến vào cung cho Châu U Vương đặng xin tội cho cha là Bao Quýnh.

        Bao Tỷ vào cung được vua U Vương sủng ái, phế Thân Hoàng hậu và Thái Tử Nghi Cửu để lập Bao Tỷ làm Chánh cung Hoàng hậu và con là Bá Phục làm Thái Tử.

        Bao Tỷ có gương mặt rất đẹp, nhưng luôn luôn buồn ủ dột, không khi nào có một nụ cười. Biết nàng thích nghe tiếng lụa xé, U Vương truyền xuất cả trăm cây lụa trong kho để xé cho Bao Tỷ nghe. Nghe qua mặt nàng chỉ tươi một chút mà không cười.

        Tại Ly Sơn thời ấy có đắp một cái đài gọi là Phong Hoả Đài, khi nào Kinh thành có loạn thì đốt lửa trên ấy để báo cho các chư hầu biết mà đem binh về cứu viện. Để làm vừa lòng U Vương, Quách Thạch Phủ bèn dâng kế cho đốt lửa Phong Hoả Đài, đánh lừa chư hầu mà làm trò cười cho Bao Tự.

        Vua U Vương nghe theo, truyền đốt Phong Hoả Đài, lửa bốc lên cao, chư hầu vội vàng kéo quân đến nườm nượp. Khi tới nơi thấy không có giặc giả, chỉ có U Vương và Chánh hậu bày tiệc uống rượu, chư hầu xẻn lẻn cuốn cờ xếp giáo, kéo nhau ai về xứ nấy. Chừng đó Bao Tỷ thích chí đứng dựa lan can mà cười ngất.

       Sau đó, Thân hầu kéo binh đánh kinh đô, U Vương truyền đốt Phong Hoả Đài, nhưng chư hầu sợ bị lừa lần nữa, nên không ai đem binh tiếp cứu. Kết quả, Châu U Vương và Bao Tỷ đều bị giết chết.

Trà my kém sắc hơn hường,

Tiếng cười Bao Tỷ hơn hờn Phan Vương.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BAO TÓC

        Bao: Bọc lại. Tóc: Lông mọc ở phần trên và sau của đầu người.

        Bao tóc, bởi chữ “Đối phu phong phát 對 夫 封 髮”, tức là bao tóc đợi chồng.

        Đường Thư chép: Ông Giả Trực Ngôn là một vị quan, vì có công việc mà phạm tội bị đày đi Lĩnh Nam, bèn từ biệt cùng vợ là bà Đổng Thị rằng: Sự sống chết không thể hẹn kỳ, nay tôi bị tội đày 20 năm, ra đi không biết sống chết thế nào, nàng ở lại nên tái giá để nương tựa tấm thân! Vợ khóc mà không đáp lại, chỉ lấy dây buộc tóc, bao ngoài bằng vải lụa, nhờ Trực Ngôn viết lên rằng: Phi quân thủ bất giải 非 君 手 不 解, có nghĩa là chẳng phải tay chàng, không mở.

        Sau đó, Trực Ngôn bị đi đày, Hai mươi năm sau mới được trở về, chữ và lụa trên đầu vợ còn rành rạnh, đến khi đem nước nóng gội tóc, tóc rụng tất cả. Thật là “trinh tiết” đáng khen!

        Người đời sau khen rằng: Đổng Thị đối phu phong phát, trinh tiết kham khoa 董 氏 對 夫 封 髮, 貞 節 堪 誇, nghĩa là bà Đổng Thị đối chồng bao tóc, trinh tiết thật đáng khen.

                     Dưới trăng bóng ngọc còn nguyên,

                     Ôm bình, bao tóc sang hèn cũng cam.

                                                (Kinh Thế Đạo).

Thiếp cam bao tóc thờ chàng,

Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa!

                                                (Kinh Thế Đạo).

BAO THUỞ

        Bao: Từ kết hợp để chỉ mức độ, số lượng hoặc khoảng thời gian nào đó.

        Thuở: Khoảng thời gian không xác định của thời quá khứ hay tương lai xa.

        Bao thuở là chừng lúc nào, thời nào. Như: Vật quý báu mà mất đi, bao thuở tidm lại được.

                     Bao thuở đầu non chim vắng dạng,

                     Thị thiềng càng thấy bắt buồn tanh.

                                                (Đạo Sử).

                     Bao thuở nằm nhà cơm tới miệng,

                     Của công thường thế phải cân đồng.

                                                (Đạo Sử).

                     Rường cột Đạo mầu bao thuở dựng,

                     Sụt sùi để bước khó làm thinh.

                                                (Thơ Thượng Sanh).

BAO TRÙM

        Bao: Bọc ở bên ngoài. Trùm: Bao phủ lên trên.

        Bao trùm là bao bọc và trùm lên khắp cả một khoảng không gian nhất định nào đó.

         Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Lễ và Nhạc cùng họp nhau và nếu giữ đúng nề nếp thì đàn cúng mới nghiêm chỉnh, được bao trùm một bầu không khí huyền diệu, Thiêng liêng khiến cho chúng ta cảm tưởng là có Đức Chí Tôn và Chư Tiên Phật giáng ngự để ban ơn cho toàn Đạo.

                     Lược sách binh thư dâng bửu bối,

                     Bao trùm hậu khí giúp nhà Nam.

                                                (Liễu Nhứt Chơn Nhơn).

                     Than ôi! Đất Tây Ninh giăng phủ mây sầu,

                     Vùng Thánh Địa bao trùm gió thảm.

                                                (Thượng Sáng Thanh).

BÁO

        1.- Báo là mách bảo. đưa tin, đưa giấy, hoặc hiển nhiên cho biết trước. Như: Báo tin, báo tử, báo quan, nhạn báo tin xuân.

        Thánh giáo Thầy có câu: Thầy đã sai Allan Kardec, Flammarion, cũng như Élie và Thánh Jean Baptiste, là những bực tiền Thánh báo tin ngày giáng sinh chấn động của Chúa Cứu Thế Jésus Christ, nhưng chúng nó, đứa thì bị hành hạ, đứa khác bị giết chết.

                     Thanh thoát rừng thung tiếng gió ngàn,

                     Muôn hồng ngàn tía báo Xuân sang.

                                                (Thơ Thượng Sanh).

        2.- Báo là làm nhiễu, làm phiền, làm hại. Như: Báo vợ con, báo hại người, báo đời.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hễ Đạo có hành tàng thì lấy từ bi làm căn bản, còn hung tàn thì đi theo cái hung, tức báo đời chớ không phải cứu đời.

                     Toan kiếm con, kiếm cũng không ra,

                     Báo vợ lớn, mẹ già, sầu thảm.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        3.- Báo 報 là trả, đền lại. Như: Báo ân, báo oán, báo ứng, báo hiếu, nghiệp báo.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Nếu ai giết mạng sống, đều chịu quả báo không sai, biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đọa luân hồi mà ra đến đỗi ấy.

Làm cho chồng vợ lìa xa,

Cả đời nghiệt báo oan gia chẳng rời.

                                                (Kinh Sám Hối).

BÁO ÂN TỪ 報 恩 祠

        Báo Ân Từ là nơi tạm mượn để thờ Đức Phật Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương và Chư Thánh Bạch Vân Động.

        Báo Ân Từ được xây cất trong nội ô Toà Thánh Tây Ninh vào năm 1932, do Đức Hộ Pháp bảo các vị công quả trong Phạm Môn tháo ba căn nhà gỗ của Sở Phạm Môn dựng lại thành một ngôi nhà lớn bên cạnh Hộ Pháp Đường, dùng làm Báo Ân Tử để thờ các bậc tiền bối có công nghiệp với Đạo và đời, và các bậc vĩ nhân có công với nhân loại. Lúc ấy, Báo Ân Từ làm bằng cột gỗ, vách đắp đất, mái lợp bằng ngói.

        Đến ngày 6 tháng giêng năm Đinh Hợi, 1947 Đức Hộ Pháp cho dọn dẹp Báo Ân Từ để dùng tạm làm Đền thờ Phật Mẫu. Dạy Hội Thánh Phước Thiện làm lễ thỉnh Long Vị Phật Mẫu nơi Đền thờ Phật Mẫu tại Trường Quy Thiện đem về thờ nơi Báo Ân Từ, rồi tạo thêm hai Long vị “Chư Chơn Linh Nam Phái” và “Chư Chơn Linh Nữ Phái” bằng chữ Nho để thờ hai gian bên.

        Vào lúc 6 giờ chiều ngày mùng 9 tháng giêng năm Đinh Hợi (Dl 30-01-1947) Lễ Viện Phước Thiện thiết lễ cúng An vị Đức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ.

        Đến cuối năm Tân Mão, 1951 bà Phối Sư Hương Nhiều, Chưởng Quản Phước Thiện Nữ phái làm đơn xin phép Đức Hộ Pháp và Hội Thánh cho Nữ phái Phước Thiện được lãnh xây dựng lại Báo Ân Từ bằng bê tông chắc chắn.

        Báo Ân Từ được khởi công xây dựng ngày 16 tháng 01 năm Nhâm Thìn (Dl 11-2-1952).

        Đức Hộ Pháp trấn thần và an vị cúng Đức Phật Mẫu ngày 4 tháng 8 năm Quý Tỵ (Dl 11-9-1953).

        Khánh thành ngày 9 tháng 01 năm Ất Mùi nhân dịp Đại lễ Khánh thánh Toà Thánh Tây Ninh từ ngày mùng 6 đến ngày 16 tháng giêng năm Ất Mùi.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Từ đây chúng ta rất hân hạnh thờ Phật Mẫu tại Báo Ân Từ. Buổi mới mở Đạo Bần Đạo biết công nghiệp của Phật Mẫu thế nào, Ngài và Cửu Vị Nữ Phật dìu dắt con cái của Đức Chí Tôn từ ban sơ đến ngày đem chúng ta giao lại cho Thầy.

Báo Ân Từ cảnh sáng trưng,

Rước Ngài Thượng Phẩm tạm dừng dưỡng sinh.

                                                (Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

                     Báo Ân Từ đắp hình Kim Mẫu,

                     Toà Thánh nghi thờ nhãn Chí Tôn.

                                                (Thơ Huệ Phong).

BÁO BỔ 報 補

        Báo: Đáp trả lại. Bổ: Làm việc có ích cho người.

        Báo bổ là báo đáp ơn nghĩa bằng cách giúp ích cho người, tức là đền bù những lúc người ta vì mình mà chịu cực nhọc.

         Trong Bài Văn tế Đức Cao Thương Phẩm của Chức Sắc Hiệp Thiên Đài có câu: Ngảnh lại, bóng tang du cha khuất, mẹ còn già ngồi lên khóc trẻ, nghĩ cũng lạ thường, thất chữ hiếu phải cam là vậy đó. Nhưng... nhưng cũng nghĩ rằng tình chồng vợ cũng đủ dạ yêu thương, nghĩa mẹ con cũng đã dày công báo bổ...

                     Nguyện lấy sức đền ơn cương thổ,

                     Dốc lòng lo báo bổ ơn nhà.

                                                            (Kinh Cúng Chiến Sĩ).

                     Ơn nước mong tìm phương báo bổ,

                     Đạo nhà nay gặp cảnh khang an.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BÁO ĐÁP 報 答

        Báo: Đáp trả lại. Đáp: Đền lại.

        Báo đáp là đền đáp ơn nghĩa.

        Nói về Giới Tử Thôi, Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Một người trung thần là Giới Tử Thôi cắt thịt vế trái mình, nấu một tô đem dưng cho Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ thấy thịt nóng, ăn ngon lắm, mới hỏi: Chỗ nầy làm sao có thịt?, Tử Thôi thưa rằng: “Tôi thường nghe con thảo hết mình thờ cha, tôi ngay liều mình thờ chúa, nay Chúa công đói lòng nên hạ thần cắt thịt trái vế mà dưng cho Chúa công đỡ dạ. Trùng Nhĩ rơi nước mắt mà than rằng: “Kẻ nạn nhân này làm hại cho ngươi biết bao, ta lấy chi báo đáp ơn người cho xứng”.

Thương lùm mả ủ thân ma,

Cốt căn báo đáp sơn hà gầy nên.

                                                (Thất Nương Giáng Bút).

BÁO HIẾU 報 孝

        Báo: Trả lại, đền đáp. Hiếu: Thảo, có lòng kính yêu, và biết ơn cha mẹ.

        Báo hiếu là đền đáp công ơn của cha mẹ.

        Báo hiếu còn có nghĩa là lo việc tang lễ chu đáo khi cha mẹ đã qua đời.

                     Muốn hiển tổ vinh tông báo hiếu,

                     Học cho hay trọng yếu miếu đường.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BÁO QUỐC 報 國

        Báo: Trả lại. Quốc: Nước.

        Báo quốc là trả nợ nước.

        Con người được sinh ra và lớn lên, trước nhứt là thọ ơn của đất nước, vì vậy khi đất nước cần, làm người dân ai cũng phải lo trả nợ cho đất nước.

        Như: Tận trung báo quốc.

                     An dân buồn thiếu trang hiền sĩ,

                     Báo quốc vui nhờ Đức Thánh Nhân.

                                                (Thanh Sơn Đạo Sĩ).

BÁO QUỐC TỪ 報 國 祠

        Báo Quốc: Báo đáp công đức của đất nước và dân tộc. Từ: Đền thờ.

        Báo Quốc Từ là Đền thờ những vị có công lớn với Quốc gia và dân tộc Việt Nam. Báo Quốc Từ được Đức Hộ Pháp cho xây dựng giữa Đại lộ từ Toà Thánh đến chợ Long Hoa.

        Ngôi Báo Quốc Từ nầy được xây dựng theo hình lục giác đều, hai mặt trước sau có cổng, trước mỗi cổng đểu có đắp đôi liễn như sau:

保 守 基 圖 英 雄 揚 氣 魄

               Bảo thủ cơ đồ anh hùng dương khí phách.

護 持 國 運 志 士 顯 威 靈

               Hộ trì Quốc vận chí sĩ hiển uy linh.

Dịch nghĩa:

        Bảo thủ cơ đồ, người anh hùng nêu cao khí phách,

        Hộ trì vận nước, người chí sĩ hiển lộ oai linh.

        Bên trong Báo Quốc Từ, nơi chánh điện có một bài vị viết bằng chữ Nho ở giữa hàng chữ lớn: “Quốc Vương Quân Chi Thuỷ” để thờ Quốc Tổ Hùng Vương, bên phải “Cứu Quốc Công Thần”, và bên trái là “Chiến Sĩ Trận Vong”.

        Ngoài ra, nơi Bàn thờ còn có các linh vị vua nhà Nguyễn có tinh thần yêu nước, chống Pháp đô hộ như: Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân và nhà cách mạng Cường Để.

                     Báo Quốc Từ ngui ngút khói hương,

                     Nghi thờ trên hết Tổ Hùng Vương.

                                                (Thơ Huệ Phong).

BÁO ỨNG 報 應

        Báo: Trả lại. Ứng: Đáp lại.

        Báo ứng là được đền trả lại những gì do chính mình đã gây tạo, như làm lành trả lành, làm ác trả ác.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Vì làm giàu với những hành động bất chánh nên họ vẫn cứ phập phồng lo sợ không biết cơ mưu sẽ bại lộ ngày nào. Đó thiệt là “Thanh bần thường lạc, trược phú đa ưu”. Lại có câu “Hoạnh tài bất phú”, ham dụng của phi nghĩa rốt cuộc cũng không hưởng được bền lâu, phép nước dầu không trừng trị thì luật Trời cũng không thứ tha, thiện ác đều có sự báo ứng.

Đó là báo ứng nhãn tiền,

Mau thì mình chịu lâu truyền cháu con.

                                                (Kinh Sám Hối).

                  Lẽ báo ứng cao thâm huyền diệu,

                  Cho chúng sanh đặng hiểu răn mình.

                                                (Giới Tâm Kinh).

                  Nếu chẳng định tâm lo xét quấy,

                  Nhãn tiền báo ứng dễ đâu sai.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BÀO

        1.- Bào là lấy cái bào (dụng cụ của thợ mộc) để làm cho phẳng, cho trơn tấm gỗ.

        Như: Bào cây cột trơn, lưỡi bào bén, bộ ván ngựa bào thật phẳng.

Thợ hay dầu đủ sức tài,

Giũa đêm chẳng đủ, bào ngày không kham.

                                                (Ngụ Đời).

        2.- Bào 胞 là cái nhau ở trong bụng người đàn bà khi tượng thai, không dùng một mình.

        Như: Bào thai, bào huynh, bào đệ, đồng bào.

                     Dầu lớn khôn tước cả quyền cao,

                     Cũng nhớ thuở thai bào công chín tháng.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        3.- Bào 泡 là cái bọt nước, hoặc cái bóng sáng, ý chỉ sự ngắn ngủi, hư ảo, không tồn tại bao lâu.

        Như: mộng huyễn bào ảnh.

        Xem: Bào ảnh.

                     Mộng huyễn bào ảnh đồ vi thị xuân,

                     Không sắc sắc không hà tu thậm dã.

                                                (Tuý Sơn Vân Mộng).

        4.- Bào 袍 là áo dài, tay rộng. Như: Cẩm bào, Chiến bào, Người lên ngựa kẻ chia bào.

        Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Anh (chỉ Quyền Giáo Tông) đã chán biết mỗi một sanh mạng của nó trong quân sĩ, nó phải cỗi áo cà sa mặc chiến bào đặng chuyển thế, gieo bảo sanh nhơn nghĩa đại đồng cho toàn nhơn loại,

                  Nghèo hèn đừng đổi lòng thành thật,

                  Mới đặng khi may mặc cẩm bào.

                                                (Đạo Sử).

BÀO ẢNH 泡 影

        Bọt nước và cái bóng là hai vật rất mong manh, dùng để chỉ sự hư ảo.

        Kinh Kim Cang có câu: Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn, bào, ảnh như lộ diệc như điện ưng tác như thị quan 一 切 有 為 法 如 夢 幻 泡 影, 如 露 亦 如 電, 應 作 如 是 觀, nghĩa là các pháp hữu vi tức là việc đời như giấc chiêm bao, bọt nước và cái bóng, như giọt móc cũng như ánh sáng của chớp nhoáng thì hết thảy nên xem như vậy cả. Ý nói những sự hiện hữu trên cuộc đời này đều không được lâu bền.

                     Biết đời bào ảnh gìn thần sắc,

                     Biết kiếp vô thường giữ khí tinh.

                                                (Thơ Cao Tiếp Đạo).

BÀO CHỮA

        Bào chữa là dùng lý lẽ và chứng cớ để bênh vực cho việc gì đó đang bị lên án, hoặc cho một người nào đó phạm tội hình sự hay dân sự trước toà án.

        Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Thầy có dạy về việc Ngài Ngô Minh Chiêu như sau: Rủi thay! Đau đớn thay! Buổi khảo nó phải bị tà quái áp chế nên phải mất ngôi, song Ta cũng còn thương yêu chẳng nỡ, nhưng mà có mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, thì khó bề bào chữa đặng.

Như phải đáng bào chữa thì Khai Đạo phân giải giữa hội cho ra lẽ oan ưng, Hiệp Thiên Đài cho lịnh thì mới dâng nội vụ lên cho Hiến Đạo.

                                                (Pháp Chánh Truyền CG).

BÀO HUYNH 胞 兄

        Bào: Bọc nằm trong bụng của người đàn bà, chỉ sự ruột thịt. Huynh: Anh.

        Bào huynh là anh ruột, tức người cùng nằm trong bụng bà mẹ như mình.

                     Bào huynh nay đã về quê cũ,

                     Một giấc nghìn thu dứt nợ trần.

                                                (Thơ Hương Cường).

BÀO LẠC 炮 烙

        Bào lạc là một thứ dụng cụ dùng để tra tấn tội nhơn rất ghê gớm. Sách Liệt Nữ Truyện chép: Một cột đồng dựng đứng có bôi mỡ, bên trong đốt than cháy đỏ rực. Tội nhân bị cột vào trụ đồng cho đến chết cháy như quay.

        Hình phạt này có vào thời nhà Thương do Trụ Vương nghĩ ra. Lúc ấy, Trụ vương nghe lời Đắc Kỷ bày ra hình Bào lạc để giết hại người tôi trung. Hình bào lạc này được chế ra để xử Bà Khương Hoàng Hậu.

        Trong bài kinh Sám Hối cho biết, dưới Diêm Đình cũng có dùng hình phạt “Bào lạc” để xử những tội hồn khi còn ở nơi dương thế tánh tình hung bạo đốt nhà người hay săn bắn loài chim thú.

                     Hình Bào lạc cột đồng vòi vọi,

                     Đốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.

                                                (Kinh Sám Hối).

BẢO

        1.- Bảo, có khi đọc “Biểu”, là chỉ truyền, tức nói với người dưới hay người ngang hàng. Như: Bảo sao nghe vậy, Ai không đi thì bảo, ai bảo anh thế?

        Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: Thầy đã có sai chư Thần mách bảo với con đã lâu, trí thiêng liêng đem đàng dắt bước con đặng độ dẫn sanh linh cho kịp thì giờ trong buổi chung cuộc của con.

                     Rồi lựa thứ vật chơi con hảo,

                     Giả như tuồng khuyên bảo đem cho.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bảo 保 là giữ gìn, không dùng một mình. Như: Bảo dưỡng, bảo chứng, bảo hộ, bảo sanh.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Cần nhứt là chúng ta nên lưu tâm sự nhận định tình thế của Đạo chẳng căn cứ theo bề ngoài mà phải căn cứ theo tinh thần thiệt mặt của Đạo là cái căn bản của Đạo Đức Vô Hình đã được un đúc từ buổi ban sơ, và nhờ thế Thánh Thể nơi mặt thế của Đức Chí Tôn mới cảm hoá nhơn tâm và bảo tồn nghiệp Đạo

                     Thiện tâm minh đạo đắc chơn truyền,

                     Bảo mạng trì thiên tắc đắc viên.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Chánh giáo bảo tồn thất ức niên,

                     Nhờ nơi luật pháp hiệp chơn truyền.

                                                (Thơ Huệ Giác).

        3.- Bảo 寶, còn đọc là “Bửu”, là quý báu. Như: Tam bảo, bảo kiếm, bảo vật.

        Theo Phật giáo, tất cả các vị Phật là Phật bảo, Giáo pháp của Phật là Pháp bảo, những người theo Phật tu là Tăng bảo.

        Đối với Cao Đài, Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng như lời Thánh giáo của Đức Chí Tôn dã dạy: Thầy khai Bát Quái Đài mà tác thành Càn Khôn Thế Giái, nên gọi là Pháp, Pháp có mới sanh ra Càn Khôn Vạn Vật rồi mới có người nên gọi là Tăng .

        Thầy là Phật chủ tể cả Pháp và Tăng, lập thành các Đạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy ".

        Xem: Bửu.

                     Quy y Tam bảo lòng thanh tịnh,

                     Chứng ngộ nhiệm mầu cảnh giới phăng.

                                                (Thơ Thanh Hương).

BẢO AN 保 安

        Bảo: Giữ gìn, che chở. An: Yên ổn.

        Bảo an là giữ gìn cho yên ổn, an toàn.

        Thánh giáo Quyền Giáo Tông có câu: Mấy em lấy chánh sách ôn nhu mà đối đãi với kẻ nghịch thù thì quyết thắng họ đặng. Qua cậy mấy em tha thứ lỗi của kẻ nghịch Qua, nhưng liệu phương bảo an Hội Thánh mà thôi.

                     Đắc truyền Khai Đạo Tam Kỳ,

                     Bảo an Tòa Thánh đến kỳ cửu niên.

                                                (Văn Tế Quyền Giáo Tông).

                     Đạo Cao Đài Nho Tông chuyển thế,

                     Giữ chơn truyền làm kế bảo an.

                                                (Thơ Thái Đến Thanh).

BẢO BỌC

        Bảo: Gìn giữ cho đừng hư, mất. Bọc: Đùm kín, gói kín, bao kín để che giữ.

        Bảo bọc là che chở, bao bọc, nuôi nấng, tức có những việc làm hỗ trợ người già, nhỏ, yếu đuối, hay  tật nguyền.

Trong nước trên thương dưới, dưới kính trên, vắng trộm cướp, khỏi luật hình, vì quốc dân đặng bảo bọc giúp đỡ cho có nghề sanh nhai.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BẢO CÔ 保 孤

        Bảo: Giữ gìn, che chở. : Mồ côi.

        Bảo cô giữ gìn trẻ mồ côi, hay giúp đỡ, bảo dưỡng người neo đơn.

                     Từ ái biến thành cơ cứu khổ,

                     Bảo cô an định pháp sanh tồn.

                                                (Thơ Huệ Phong).

BẢO DƯỠNG 保 養

        Bảo: Giữ gìn, che chở. Dưỡng: Nuôi nấng.

        Bảo dưỡng là chăm nom và nuôi nấng cha mẹ hay người già cả, tàn tật.

        Bảo dưỡng còn có nghĩa là trông nom, giữ gìn và sửa chữa thường xuyên, như bảo dưỡng xe cộ, máy móc.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Tuy vân, lúc nọ mấy em có phương thế lắm mà mấy em chỉ có tâm vị kỷ, trót năm năm, Qua đi vắng đến khi Qua trở về, Qua còn thấy có kẻ đói không ai nuôi, rách rưới không ai bảo dưỡng, thất lạc nơi nầy nơi khác, đoàn em Qua gởi gấm đã xiêu lạc, thủ phận Đạo không được, nên phải tìm đôi bạn sống theo Đời, vì nếu ở thủ phận theo Đạo thì cũng chẳng ai nuôi.

Phước Thiện bảo dưỡng khắp nơi,

Phước Thiện lập để cứu đời chúng sanh.

                                                (Thất Nương Giáng Bút).

BẢO ĐẢM 保 擔

        Bảo: Giữ gìn, gánh trách nhiệm. Đảm: Nhận gánh lấy trách nhiệm.

        Bảo đảm là nhận gánh vác một việc gì. Bảo đảm còn có nghĩa là bảo lãnh và đảm nhận.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Còn mang lấy xác thân là còn trách nhiệm cho đến ngày thở hơi cuối cùng. Phải tự nuôi tâm chí cho cao thượng, tự bảo đảm cái trách nhậm ấy đặng tự tạo con đường “sống còn” hầu giải thoát cho những kẻ đương “sống mất”.

Tự tín là gì? Là mình tin nơi sở sanh của mình có thể bảo đảm được sanh mạng cho mình.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BẢO ĐẠO CHƠN QUÂN

保 道 真 君”.

        Hay “Bảo Đạo

        Bảo Đạo Chơn Quân hay Bảo Đạo là một phẩm chức sắc của đạo Cao Đài, một trong Thập nhị Thời quân thuộc chi Đạo Hiệp Thiên Đài, dưới quyền của Thượng Phẩm.

        Theo Hiến pháp Hiệp Thiên Đài, Bảo Đạo là người có trách nhiệm bảo tồn luật Đạo, bảo hộ những điều cần ích cho Đạo đã ra mặt luật. Ngoài ra, Pháp Chánh Truyền chú giải cũng có quy định: Khi tiếp cáo trạng các vụ án do Hiến Đạo dâng lên, Bảo Đạo phải gìn giữ bí mật ấy cho kín nhiệm, làm tờ lý đoán binh vực chiếu y luật Đạo rồi dâng lên cho Thượng Phẩm, đặng người lo phương bào chữa. Bảo Đạo là Đầu Phòng Văn của Thượng Phẩm.

        Áo Đại phục của Bảo Đạo toàn trắng, cổ trịch, viền kim tuyến bạc, đầu đội mão Nhựt Nguyệt mạo màu trắng, lưng đeo dây sắc lịnh, thả mối bên hong mặt (Thuộc Đạo), chân đi giầy vô ưu trắng.

        Áo Tiểu phục cũng toàn hàng trắng, lưng mang dây sắc lịnh y như Đại phục, đầu đội Hỗn Nguơn mạo, trên mão có Long Tu Phiến và Phất Chủ (Cổ pháp Thượng Phẩm), chân đi giầy vô ưu màu trắng.

        Bảo Đạo Hiệp Thiên Đài được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Ca Minh Chương trong đàn cơ ngày 13 tháng 02 năm 1927 tại chùa Gò Kén.

        Ngài Ca Minh Chương sinh năm 1850 (Canh Tuất), tại ấp Thanh Ba, làng Mỹ Lộc Tây, tổng Phước Điền Trung, quận Cần Giuộc, trong một gia đình theo Nho giáo. Hiền nội của Ngài là bà Phạm Thị Kế, sinh 1860, ông bà chỉ sinh được đứa con gái là Ca Thị Thế.

        Ngài được dân làng cử lên làm chức Hương Bộ làng Mỹ Lộc, sau một thời gian làm việc, Ngài xin nghỉ để theo nghề dạy học.

        Khi ngộ Đạo rồi, Ngài Ca Minh Chương cùng với Ngài Phạm Văn Tươi được phân công phò loan tại đàn cơ ở Tân Kim quận Cần Giuộc, thuộc nhà ông Cựu Hội Đồng Nguyễn Văn Lai, để dân chúng đến hầu đàn nhập môn cầu Đạo.

            Trong đàn cơ Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài, Ngài Ca Minh Chương được phong chức là Bảo Đạo. Ngài là một vị Thời Quân lớn tuổi nhứt trong Thập Nhị Thời Quân. Vì vậy, Ngài chỉ hành Đạo gần ba năm thì mất vào ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thìn (Dl 30-11-1928), hưởng thọ 79 tuổi.

        1.- Bảo Đạo Chơn Quân:

                     Bảo người ở thế gắng công tu,

                     Đạo Đức Cao Thâm vẹt ngút mù.

                     Chơn chất thành tâm thì biện bạch,

                     Quân năng ưu Đạo lập công phu.

                                                (Ca Bảo Đạo Giáng)

        2.- Bảo Đạo:

                     Cảnh trần ai đã tạo Thiên đàng,

                     Bảo Đạo Minh Chương tiếp lấy phan.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

                     Kỷ niệm hôm nay cảm mấy vần,

                     Xưa Ca Bảo Đạo đắc Thiên ân.

                                                (Cội Đạo Bốn Mùa).

BẢO HỘ 保 護

        Bảo: Giữ gìn. Hộ: Giúp đỡ.

        1.- Bảo hộ là nước mạnh đánh chiếm nước yếu, lấy cớ là để bảo hộ.

        Như: Việt Nam chịu ách bảo hộ của Pháp.

Vậy Thầy nhờ con truyền bá Giáo lý nầy cho dân tộc đặt dưới quyền bảo hộ của con.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

        2.- Ngoài ra, Bảo hộ còn có nghĩa là che chở, giữ gìn giúp đỡ không để bị hư hỏng, tổn thất.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thánh giáo Đức Chi Tôn có câu: Lo bảo hộ Luật đời và Luật Đạo, chẳng ai qua Luật mà Hiệp Thiên Đài chẳng biết.

                     Ở ngay thẳng Thần minh bảo hộ,

                     Nết xéo xiên gặp chỗ rạc tù,

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Phước Thiện bảo hộ người cùng,

                     Việt Nam làm chủ vẫy vùng tự do.

                                                (Thất Nương Giáng Bút).

BẢO LÃNH

        Hay “Bảo lĩnh”.

        Bảo: Gánh trách nhiệm. Lãnh (lĩnh): Nhận lấy.

        Bảo lãnh, như chữ “Bảo lĩnh 保 領”, là bảo đảm người khác thực hiện một nghĩa vụ và chịu trách nhiệm nếu người đó không thực hiện.

        Bảo lãnh đồng nghĩa với chữ “Bảo đảm 保 膽”.

Thầy bảo lãnh các con, un đúc chí Thánh của các con, đã mãn kỳ, phải giao lại cho Tòa Tam Giáo được phép lấy mực công bình mà chuẩn phê các cử chỉ của mỗi đứa.

                                                (Thánh Ngôn HiệpTuyển).

BẢO PHÁP CHƠN QUÂN

保 法 真 君

        Hay “Bảo Pháp”.

        Bảo Pháp Chơn Quân hay Bảo Pháp là một phẩm chức sắc của đạo Cao Đài, một trong Thập nhị Thời quân thuộc chi Pháp Hiệp Thiên Đài, dưới quyền của Hộ Pháp.

        Theo Hiến pháp Hiệp Thiên Đài, Bảo Pháp là người có trách nhiệm bảo tồn luật pháp của Đạo, bảo hộ không cho ai phạm đến những điều luật nào đã thành mặt luật. Ngoài ra, Pháp Chánh Truyền chú giải cũng có quy định: Khi tiếp nhận giấy tờ do Hiến Pháp dâng lên, Bảo Pháp phải gìn giữ bí mật, kín nhiệm, làm tờ xét và định án chiếu y theo luật Đạo, rồi dâng lên cho Hộ Pháp đặng Người phân xử.

        Áo Đại phục của Bảo Pháp toàn trắng, cổ trịch, viền kim tuyến bạc, đầu đội mão Nhựt Nguyệt mạo màu trắng, lưng đeo dây sắc lịnh, thả mối ngay giữa bụng (Thuộc Pháp), chân đi giầy vô ưu trắng.

        Áo Tiểu phục cũng toàn hàng trắng, lưng mang dây sắc lịnh y như Đại phục, đầu đội Hỗn Nguơn mạo, trên mão có để cổ pháp Hộ Pháp (Xuân Thu, Phất chủ, và Bát Vu), chân đi giầy vô ưu màu trắng.

        Bảo Pháp Hiệp Thiên Đài được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Nguyễn Trung Hậu trong đàn cơ ngày 12 tháng 01 năm Đinh Mão (Dl 13-2 1927) tại chùa Gò Kén.

        Ngài Nguyễn Trung Hậu, tên thật là Nguyễn Văn Hậu, sanh ngày 05 tháng 03 năm Nhâm Thìn (Dl 01-4- 1892) tại làng Bình Hoà, tỉnh Gia Định. Thân phụ là cụ Nguyễn Phục Lễ, là Đông Y Sĩ và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Cơ, người Bình Định.

        Hiền nội của Ngài Nguyễn Trung Hậu là bà Diệp Thị Nguy, quy vị vào cuối năm Nhâm Thìn, 1953. Hai Ông Bà có tám người con, gồm 5 trai 3 gái.

        Ngài tốt nghiệp trường Sư Phạm Gia Định, được bổ làm giáo viên tại một trường Tiểu Học ở đường Tabert, khi trường nầy bị bãi bỏ, sau đổi Ngài về dạy trường Tiểu Học ở đường Richaud.

        Năm 1919, Ngài làm thư ký cho ông Giám Đốc các trường Tiểu Học Sài gòn.

        Năm 1922, Ngài xin nghỉ làm thư ký để làm Giám Đốc Tư Thục Internat de Dakao ở đường D’Ariès, nay là Huỳnh Khương Ninh.

        Đến năm 1926, Ngài giao trường Internat de Dakao lại cho ông Huỳnh Khương Ninh, rồi gia nhập vào Đạo Cao Đài.

        Kể từ đó Ngài dạy Pháp văn cho các trường Hưng Việt, Nguyễn Anh Bổn, Nguyễn Du và tham gia viết cho các báo như Đuốc Nhà Nam, Hoàn Cầu, Tân Văn, rồi sau đó làm chủ bút tạp chí La Revue Caodaiste để truyền bá giáo lý của Đạo Cao Đài cho người ngoại quốc.

        Ngài Nguyễn Trung Hậu là một thi sĩ có tiếng tăm đã tham gia vào Ngưu Giang Thi Xã vào các năm 1918-1920. Ngài lấy bút hiệu là Thuần Đức.

        Ngày 15 tháng 3 năm Bính Dần (Dl 26-04-1926), Đức Chí Tôn phong Ngài Nguyễn Trung Hậu làm Tiên Đạo Phò Cơ Đạo Sĩ.

        Ngày 12 tháng 01 năm Đinh Mão (Dl 13-02-1927), Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài và phong Ngài Nguyễn Trung Hậu vào phẩm Bảo Pháp Hiệp Thiên Đài.

        Ngày 07 tháng 03 năm Quý Dậu (Dl 01-04-1933), Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu được cử tạm quyền Thái Chưởng Pháp do Châu Trí số 1 của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung và Đức Hộ Pháp ký.

        Ngày 15 tháng 4 năm Đinh Dậu (Dl 14-05-1957), Ngài được Hội Thánh cử làm Giám Đốc Hạnh Đường, huấn luyện chức sắc.

        Ngài Nguyễn Trung Hậu có viết và xuất bản nhiều sách Đạo như: Luận Đạo Vấn Đáp (1927), Tiên Thiên Tiểu Học (1927), Châu Thân Giải, Ăn Chay, Đức Tin, Chơn Lý (1928), Đại Đạo Căn Nguyên (1930), Thiên Đạo (Viết chung với Phan Trường Mạnh 1955), Luân Hồi Quả Báo (Viết chung với Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi 1956).

        Vào cuối năm 1958, do tuổi già sức yếu, lại bị bịnh áp huyết cao, Ngài Bảo Pháp phải xin phép trở về dưỡng bịnh tại tư gia ở đường Ngô Tùng Châu, Gia Định.

        Đến ngày 7 tháng 9 năm Tân Sửu (Dl 16-10-1961), Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu đăng Tiên lúc 16 giờ 50 phút, hưởng thọ 70 tuổi.

        1.- Bảo Pháp Chơn Quân:

                     Bảo Pháp Chơn Quân đã lánh trần,

                     Nương về cựu vị cảnh đài vân.

                                                (Thơ Thượng Sanh).

                     Bảo Pháp Chơn Quân khuất bóng rồi,

                     Từ đây thui thủi một mình tôi.

                                                (Thơ Hiến Pháp).

        2.- Bảo Pháp:

                     Thánh danh Bảo Pháp đời xưng tụng,

                     Để khách tầm tiên ngẩng bút chờ.

                                                (Thơ Huệ Phong).

                     Bảo Pháp Tiên sinh đã lánh trần,

                     Hạc về hoa biểu lướt trùng vân.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

BẢO QUỐC 保 國

        Bảo: Gìn giữ. Quốc: Nước, đất nước.

        Bảo quốc là bảo vệ quốc gia, ý muốn nói là gìn giữ bảo vệ đất nước.

        Như: Bảo quốc an dân.

        Xem: Bảo quốc hộ dân.

                     An dân buồn thiếu trang hiền sĩ,

                     Bảo quốc vui nhờ Đức Thánh nhân.

                                                (Thanh Sơn Chơn Nhơn).

BẢO SANH

        Hay “Bảo sinh”.

        Bảo: Giữ gìn. Sanh (Sinh): Sanh mạng, mạng sống.

        Bảo sanh, hay “Bảo sinh 保 生” là giữ gìn sinh mạng, bảo toàn sự sống.

        Đức lớn của Trời đất là sự sinh. Người là một phần nhỏ của muôn vật, cho nên cũng phải theo lẽ Trời mà sinh hoá. Khổng giáo lấy sự sinh làm gốc cho hành vi thiện ác: Việc gì hợp với đức sinh là thiện, trái với đức sinh là ác. Như vậy, cái tông chỉ của Đạo Khổng là theo Thiên lý mà bồi bổ cho sự sinh của vạn vật, hay nói cách khác, là phải bảo sanh vạn vật.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có day: Sự thương yêu là giềng bảo sanh của Càn khôn Thế giới. Có thương yêu, nhơn loại mới hoà bình, Càn khôn mới an tịnh. Đặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, mới giữ bền cơ sanh hoá.

Tạo đời cải dữ ra hiền,

Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn.

                                                (Kinh Tận Độ).

Bảo sanh bủa khắp năm châu,

Toàn cầu chung hưởng phép mầu Chí Linh.

                                                (Kinh Cúng Chiến Sĩ).

BẢO TOÀN 保 全

        Bảo: Gìn giữ. Toàn: Nguyên vẹn.

        Bảo toàn là giữ cho được nguyên vẹn, không để suy suyển, mất mát.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nếu thế gian dữ thì thế nào đặng bảo toàn, còn mong mỏi gì đặng bền vững. Cá nhân dữ thì thế nào bảo toàn tánh mạng.

                     Nguyền Khổng Thánh bảo toàn Nho giáo,

                     Lấy nghĩa nhơn Đại Đạo truyền ra.

                                                (Giới Tâm Kinh).

Phước Thiện để rước ngoại bang,

Phước Thiện sản nghiệp bảo toàn thế gian.

                                                (Thất Nương Giáng Bút).

BẢO TỒN 保 存

        Bảo: Gìn giữ. Tồn: Còn.

        Bảo tồn là gìn giữ cho còn.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Ấy vậy, các con phải lưu tâm mà chấn hưng mối Đạo, ấy là kế bảo tồn quốc túy, lại là phương thoát tục.

Vẹn toàn đủ xác đủ hồn,

Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh.

                                                (Kinh Tận Độ).

Phước Thiện nắm luật bảo tồn,

Phước Thiện để rước chơn hồn nguyên nhân.

                                                (Thất Nương Giáng Bút).

BẢO TỒN QUY CỔ

保 存 歸 古

        Bảo Tồn: Nguơn Bảo Tồn, còn gọi là nguơn Tái Tạo. Quy cổ: Trở về như đời Thượng cổ.

        Vào thời Hạ nguơn, sự tranh đấu càng ngày càng ác liệt, khiến nhơn loại chịu nạn tiêu diệt hầu kề, nên còn gọi là Nguơn điêu tàn.

        Nhưng hễ loạn tới trị, do vậy Nguơn tiêu diệt sẽ bước sang Nguơn Bảo Tồn là Nguơn đạo đức phục hưng, để trở lại như đời Thượng cổ, đó gọi là Bảo Tồn quy cổ.

Hạ nguơn nay đã mãn rồi,

Bảo tồn quy cổ cơ trời chuyển luân.

                                                (Thơ Thông Quang).

BẢO TỒN CHÚNG SANH

保 存 衆 生

        Bảo tồn: Giữ cho còn. Chúng sanh: Tất cả các loài vật có sự sống

        Bảo tồn chúng sanh, đồng nghĩa vớt “Bảo tồn vạn linh”, là giữ gìn cho còn mạng sống của muôn sinh linh (chúng sanh) trong Càn khôn Vũ trụ.

         Mạng sống của vạn linh được Thánh giáo dạy như sau: Chi chi hữu sanh cũng do bởi Chơn Linh Thầy mà ra. Hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là Cha của sự sống. Vì vậy mà lòng háo sanh của Thầy không cùng tận.

        Cái sống của cả chúng sanh, Thầy phân phát khắp Càn khôn Thế giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hoá ra thêm. Nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến hoá.

        Vì lòng háo sanh nên Thánh chất của Chí Tôn là Bảo sanh, tức là có sự thương yêu để bảo toàn sự sống của chúng sanh. Thánh giáo dạy: “Sự thương yêu là giềng Bảo sanh của Càn khôn Thế giới. Có thương yêu nhơn loại mới hoà bình, Càn khôn mới an tịnh. Đặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, mới giữ bền cơ sanh hoá”.

Chơn thần đã nhập Càn khôn,

Thâu quyền độ thế bảo tồn chúng sanh.

                                                (Kinh Tận Độ).

BẢO TỒN VẠN LINH

保 存 萬 靈

        Bảo tồn: Giữ cho còn. Vạn linh: Muôn sanh linh, tất cả các chơn linh trong Càn khôn Vũ trụ gồm đủ bát hồn.

        Bảo tồn vạn linh là giữ gìn cho còn mạng sống của muôn sinh linh trong Càn khôn Vũ trụ.

        Xem: Bảo tồn chúng sanh.

Vẹn toàn đủ xác đủ hồn,

Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh.

                                                (Kinh Tận Độ).

BẢO THẾ CHƠN QUÂN

保 世 真 君

        Hay “Bảo Thế”.

        Bảo Thế Chơn Quân hay Bảo Thế, là một phẩm chức sắc của đạo Cao Đài, một trong Thập nhị Thời quân thuộc chi Thế Hiệp Thiên Đài, dưới quyền của Thượng Sanh.

        Theo Hiến pháp Hiệp Thiên Đài, Bảo Thế là người có trách nhiệm bảo tồn luật Thế, bảo hộ những điều cần ích cho Đạo đã ra mặt luật. Ngoài ra, Pháp Chánh Truyền chú giải cũng có quy định: Khi tiếp nhận giấy tờ do Hiến Thế dâng lên, Bảo Thế phải gìn giữ bí mật, kín nhiệm, rồi chiếu y Đạo luật và Thê luật mà làm tờ buộc án, kế dâng lên Thượng Sanh đặng Người đến Toà Tam Giáo Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài hay Bát Quái Đài mà buộc tội.

        Bảo Thế là Đầu Phòng Văn của Thượng Sanh.

        Áo Đại phục của Bảo Thế toàn trắng, cổ trịch, viền kim tuyến bạc, đầu đội mão Nhựt Nguyệt mạo màu trắng, lưng đeo dây sắc lịnh, thả mối bên hong trái (Thuộc chi Thế), chân đi giầy vô ưu trắng.

        Áo Tiểu phục cũng toàn hàng trắng, lưng mang dây sắc lịnh y như Đại phục, đầu đội Hỗn Nguơn mạo, trên mão có để cổ pháp Thượng Sanh (Thư Hùng Kiếm, Phất chủ), chân đi giầy vô ưu màu trắng.

        Bảo Thế Hiệp Thiên Đài được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Lê Thiện Phước trong đàn cơ ngày 12 tháng 01 năm Đinh Mão (Dl 13-2 1927) tại chùa Gò Kén.

        Ngài Bảo Thế sinh ngày 4 tháng 6 năm 1985 (Ất Mùi) tại Sài Gòn. Thân phụ là Lê Văn Dương, giám đốc trường Tiểu Học Dakao, thân mẫu là Trần Thị Chọn đã nhập môn vào Đạo Cao Đài.

        Năm 1912, Ngài đậu bằng Thành Chung trường Chasseloup Laubat tại Sài Gòn. Năm 1915, tốt nghiệp trường luật Đông Dương, sau đó đậu vào ngạch Thơ Ký Thượng Thơ (Dinh Hiệp Lý Sài Gòn) đời Pháp Thuộc.

        Năm 1927 nghỉ làm việc cho nhà nước, ra giúp xã hội, đắc cử Hộ Trưởng Quận Tân Định và Hoà Hưng. Năm 1944, làm Huyện danh dự, rồi làm chủ hai nhà máy xay gạo ở Dakao và Chợ Lớn.

        Bảo Thế được Đức Chí Tôn giáng cơ tại nhà Ngài Thái Thơ Thanh, ban cho một bài thi khuyên lo tu hành, Ngài nhập môn và Thượng Tượng có mời các Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Hộ Pháp đến dự. Cho đến năm 1946, Đức Ngài mới chánh thức trọn phế đời hành Đạo.

        Đức Hộ Pháp vừa rời hải đảo Madagascar trở về Việt Nam, liền tái thủ quyền hành, giao Ngài Bảo Thế trách vụ “Thừa quyền Hộ Pháp”, sau đó ngày 21 tháng 01 năm 1950, nhận chức vụ “Tổng Thư Ký Chánh Trị Đạo”. Do Thánh lịnh ngày 01 tháng 9 năm Ất Mùi, 1955, Ngài đại diện chi Thế, đứng trong Tam Đầu Chế Hiệp Thiên Đài. Đến năm 1956, Ngài Đại diện Hội Thánh lập Thoả Ước năm Bính Thân.

        Ngài Bảo Thế lúc về già bị bịnh bán thân, sức khoẻ yếu dần, rồi đăng Tiên vào lúc 6 giờ 30 phút sáng ngày 17 tháng 3 năm Ất Mão (Dl 27- 4-1975) hưởng thọ 81 tuổi.

                     Bảo trọng vạn linh hiệp chí linh,

                     Thế nguy chuyển loạn lập hoà bình.

                                                (Bài Thài Bảo Thế).

BẢO THỂ 保 體

        Bảo: Bảo hộ, giữ gìn. Thể: Hình thể.

        Bảo Thể, còn gọi là Bảo Thể Quân, là bảo vệ, che chở Thánh thể Đức Chí Tôn tại thế, tức là che chở cho toàn Hội Thánh.

        Trong Nội ô Toà Thánh, nếu Thánh Vệ giữ gìn trật tự an ninh ngoài đường phố của Nội ô thì Bảo Thể gìn giữ trật tự trong các Dinh thự, các cơ quan hành chánh, cùng các buổi cúng đàn trong Đền Thánh.

        Cơ Bảo Thể (Cơ Quan Bảo Thể) và Cơ Thánh Vệ được đặt dưới quyền Thống Quản của Hộ Đàn Pháp Quân.

        Khi cúng Đức Chí Tôn, Bảo Thể Quân mặc áo trường y sáu nút, lưng buộc dây thắt lưng trắng, tay mang Tam Sắc Đạo, đầu đội mão giống như cái calot màu trắng, tay cầm cây Tam Thanh. Nếu là Chánh Bato Thể thì trên mão có cổ pháp của Hộ Pháp.

        Chánh Bảo Thể có đủ năm năm công nghiệp và có đủ hạnh đức thì được cầu phong lên Lễ Sanh.

        Còn Bảo Thể Quân (nhân viên Bảo Thể) thì đủ 10 năm công nghiệp và đủ hạnh đức cũng được cầu phong lên phẩm Lễ Sanh.

Hộ Đàn kiêm luôn Thánh Vệ và Bảo Thể vì hai cơ quan nầy chịu dưới quyền thống quản của Hộ Đàn.

                                                (Thánh Giáo Hộ Pháp).

BẢO THỦ 保 守

        Bảo: Giữ gìn. Thủ: Giữ.

        Bảo thủ là Gìn giữ, hay cố giữ những cái sẵn có, ý không muốn thay đổi.

        Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp có câu: Có công thì không phụ, có chánh thì không tà, không chối cái điều chơn thật được, còn có từ bi thì có khoan hồng dung thứ, có bác ái mới có thể bảo thủ và thân mến toàn thiên hạ…

Ấy phương bảo thủ thành trì,

Đường khai đã sẵn gắng đi cho cùng.

                                                (Nhàn Âm Đạo Trưởng).

                     Lạc Hồng thuở dựng giang san,

                     Dày công bảo thủ bốn ngàn năm xưa.

                                                (Mỹ Ngọc Thi Phổ).

BẢO THỦ CHƠN TRUYỀN

保 守 真 傳

        Bảo thủ: Gìn giữ. Chơn truyền: Những giáo pháp chơn thật để truyền lại cho người sau.

        Bảo thủ Chơn Truyền là gìn giữ những giáo pháp chơn thật để truyền lại cho người sau.

        Khi thuyết về Lễ Đăng Tiên của Hộ Pháp, Đức Thượng Sanh có câu: Biết tôn thờ Đức Ngài, Biết ghi nhớ ơn của Đức Ngài, chúng ta phải noi theo gương sáng của Đức Ngài, cái gương nhẫn nại và vị tha, luôn luôn quên mình, sẳn sàng hy sinh để bảo thủ chơn truyền và giữ trọn hiếu trung đối với Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ.

Thừa kế đại chí, bảo thủ chơn truyền, thật hành nhơn nghĩa, tế độ chúng sanh.

                                                (Sớ Văn).

BẢO TRỌNG 保 重

        Bảo: Giữ gìn. Trọng: Xem nặng, quý trọng.

        Bảo trọng là chủ ý giữ gìn và quý trọng thân thể hoặc danh giá của mình.

        Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Diễn Văn Đức Quyền Giáo Tông đọc tại Tòa Thánh, ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Tuất (1934) có câu: Phận sự bảo trọng lấy mình là dễ; còn phận sự bảo Đạo vốn khó vô cùng.

Quyền năng của chơn linh không giới hạn, nó là quyền năng bảo trọng đường sống của vạn loại, của xác hình.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BẢO VĂN PHÁP QUÂN

保 文 法 君

        Hay “Bảo Văn Quân”.

        Bảo Văn Quân tức Bảo Văn Pháp Quân, là một phẩm chức sắc trong Thập Nhị Bảo Quân của Hiệp Thiên Đài.

        Bảo Văn Pháp Quân có nhiệm vụ chỉnh đốn Lễ Nhạc trong đạo Cao Đài cho hoàn toàn đến ngày thành Đạo.

        Bộ Đại phục của Bảo Văn Pháp Quân toàn bằng hàng trắng, đầu đội Nhựt Nguyệt Mạo, hai bên ngay chính giữa có kết một bông sen năm cánh, trên mỗi bông sen có thêu Thiên Nhãn, ngay đường giữa trước mão cũng kết một bông sen nhưng không thêu Thiên Nhãn, cả thảy ba bông sen trên mão. Lưng đai Bạch Tuyết Thần Quang bằng hàng trắng, buộc mối chừa ra trước thế nào đủ thắt một bông sen năm cánh. Chơn đi giầy Vô Ưu cũng bằng hàng trắng, trước mũi mỗi chiếc có một bông sen nhỏ.

        Bảo Văn Pháp Quân được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Cao Quỳnh Diêu.

        Cao Quỳnh Diêu hiệu là Mỹ Ngọc, Đạo hiệu là Cao Liên Tử, sinh năm Giáp Thân 1884 tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh Thượng, tỉnh Tây Ninh.

        Thân phụ là Cao Quỳnh Tuân, làm Cai tổng Hàm Ninh Thượng, thân mẫu là Bà Trịnh Thị Huệ, sau đắc phong Nữ Giáo Sư và em ruột thứ tư là Ngài Cao Quỳnh Cư, sau đắc phong Thượng Phẩm.

        Năm 1927, Ngài Cao Quỳnh Diêu đắc phong Tiếp Lễ Nhạc Quân, có phận sự sắp đặt Lễ nghi và âm nhạc trong việc cúng tế của đạo Cao Đài. Chính Ngài vâng lịnh Hội Thánh đặt ba bài Dâng Tam Bửu hiện nay, được Bát Nương giáng cơ chỉnh văn lại.

        Đầu năm Canh Ngọ 1930, Ngài Cao Quỳnh Diêu được thăng lên phẩm Bảo Văn Pháp Quân. Đến năm 1932, Ngài viết bài Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu, được Bát Nương giáng cơ chỉnh văn lại để dùng làm kinh Cúng Tứ Thời nơi Điện Thờ Phật Mẫu.

        Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu đăng Tiên vào ngày 4 tháng 9 năm Mậu Tuất (Dl 16-10-1958), tại Văn Phòng Trung Tông Đạo, trong Nội Ô Toà Thánh, hưởng thọ 75 tuổi.

        1.- Bảo Văn Pháp Quân:

Ngài Bảo Văn Pháp Quân sanh trưởng tại làng Hiệp Ninh, Tổng Hàm Ninh Thượng thuộc tỉnh Tây Ninh..

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

        2.- Bảo Văn Quân:

                     Lòng thành ai điếu Bảo Văn Quân,

                     Sanh tử chẳng qua cũng một lần.

                                                (Thơ Hiến Pháp).

BÃO

        1.- Bão là gió xoáy trong phạm vi rộng, có sức phá hoại dữ dội do gió lớn mưa to. Như: Phong ba bão táp.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trước cảnh máu xương chồng chất gây nên bởi chiến cuộc, trước cảnh chiếu đất màn trời, của mấy trăm nạn nhân bão lụt miền Trung đang vất vả khóc than, vì đói rách cơ hàn, chúng ta những người đã xả thân cầu đạo, có vui sướng gì mà hỉ hạ chơi Xuân, hoang phí đồng tiền để làm khách phong lưu trong buổi trà dư tửu hậu.

                     Trong ngày mười tám vẫn an khương,

                     Tối lại bão to rất lạ thường.

                                                (Thơ Thái Đến Thanh).

                     Bão tới, sao đưa về lũ lụt?

                     Nắng thiêu, nở héo hết cây mầm!

                                                (Thơ Thanh Hương).

        2.- Bão 飽 là no, không đói.

        Như: Bão noãn (no ấm), bão mãn (đầy đủ), cư bất cầu an thực bất cầu bão.

Nhưng chưa nghèo phải học nghèo, chưa khổ phải học khổ, kế chí quân tử, cư bất cầu an, thực bất cầu bão

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BÃO BÙNG

        Bão: Cơn gió to thổi. Bùng: Bốc, phát lên mạnh.

        Bão bùng là bão lớn bốc lên mãnh liệt và dữ dội.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Ngày nay về đảm đương việc Đạo, chúng tôi quyết tôn trọng tinh thần tập thể, nghĩa là sẽ chung trí mà lái con thuyền Đạo giữa cơn sóng gió bão bùng. Phàm một sắc lịnh hay một quyết nghị nào sẽ đem ra ban hành là khi đã được phần đông chức sắc Hiệp Thiên Đài chấp thuận.

                     Phú quý ấy là nơi Thiên định,

                     Bão bùng hết lúc đến hồi an.

                                                (Đạo Sử).

Chờ cho nước lặng đến chơn,

Chơn mau khó thoát mấy cơn bão bùng.

                                                (Nhàn Âm Đạo Trưởng).

BÃO TỐ

        Bão: Cơn gió to thổi. Tố: Cơn dông.

        Bão tố, đồng nghĩa với chữ “Bão táp”, là nói một cơn bão lớn, dữ dội, thường dùng để ví với cảnh gian nan đầy thử thách, hoặc việc xảy ra dữ dội, mãnh liệt. Như nói: Cuộc đời đầy bão tố.

        Thánh giáo Đức Diêu Trì Kim Mẫu có dạy trong Thánh Ngôn Sưu Tập như sau: Mẹ mừng đến nỗi rơi nước mắt, vì thấy các con hãy còn trong vòng cương tỏa của thế tình. Tuy nhiên nhờ tánh đức của các con đã rèn luyện bấy lâu nên cũng lướt qua nhiều bão tố.

                     Đảnh Việt chờ qua cơn bão tố,

                     Muôn năm tỏ rạng mối chơn truyền.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Cơn bão tố thuyền con thủ phận,

                     Để chờ cơn tan trận phong ba.

                                                (Lục Nương Giáng Bút).

                     Đảnh Việt chờ qua cơn bão tố,

                     Muôn năm tỏ rạng mối chơn truyền.

                                                (Thượng Phẩm Giáng Bút).

BẠO

        1.- Bạo là không nhút nhát, không sợ hãi. Như: Bạo ăn, bạo nói, bạo gan, bạo tính.

        Thánh giáo Thầy trong Đạo Sử có dạy: Các con cũng nên bạo gan mà nói trước mặt Vạn Quốc cùng Chánh Phủ rằng: Các con là người Đạo biết giúp đỡ nhơn sanh, dạy dỗ nhơn sanh, chớ chẳng biết chánh trị là gì?

Đường đạo vững bền, chớ nên bạo tính mà cũng chẳng nên giải đãi bần dùn, gắng công trì chí, liệu chừng với nhau mà vẹt cho sạch mấy lối chông gai để cho dễ bước đường sau tấn bộ.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

        2.- Bạo là hung dữ, không kể gì đến nhơn nghĩa, đạo đức. Như: Hung tàn bạo ngược, bạo thiên nghịch địa.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: hoạ Âu tai Á sẽ vì Thiên điều mà phạt kẻ bạo tàn tội lỗi.

Trói người vào đó xát chà,

Vì chưng hung bạo đốt nhà bắn săn.

                                                (Kinh Sám Hối).

                        Chê tà trừ bạo lẽ như nhiên,

                        Song lưỡi gươm chưa sánh dạ hiền.

                                                (Đạo Sử).

BẠO HÀNH 暴 行

        Bạo: Hung tợn. Hành: Việc làm, hành động.

        Bạo hành là dùng lối hung dữ và ngang ngược trong khi hành động.

        Như: Kẻ tham quan mới bạo hành với người dân.

                     Vui chánh nghĩa vui hoài không thẹn,

                     Vui bạo hành là kẻ dã tâm.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

Gây trường náo loạn kinh hồn,

Đế quyền xúi giục du côn bạo hành.

                                                (Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

BẠO NGƯỢC 暴 虐

        Bạo: Hung tợn. Ngược: Ngang ngược, độc ác.

        Bạo ngược là tàn bạo ngang ngược, tức kẻ hung tợn độc ác.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bởi vì đời quá hung tàn bạo ngược vô nhơn luân, tinh thần đạo đức không quy định, tâm lý loài người không tương quan cùng nhau, mất cả luật đồng sanh làm căn bản của loài người, luật đồng sanh gần như bị huỷ bỏ.

                     Hiền ngõ rủi sanh đời bạo ngược,

                     Dầu trong Thánh đức cũng ra thường.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Đừng học thói của quân bạo ngược,

                     Xử mẹ cha tội phước quá hơn tòa.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẠO TÀN 暴 殘

        Bạo: Hung dữ, dữ dội. Tàn: Ác, xấu lắm.

        Bạo tàn, như chữ “Tàn bạo 殘 暴”, là độc ác, hung bạo, tàn ngược.

        Thánh giáo Thầy có câu: Còn có một hạng người cũng có tánh thiêng liêng ấy, nhưng lại không để trí khôn vào lối cao thượng, mà cứ quen thói hung hăng, nghĩ những việc bạo tàn, làm điều tội lỗi, ấy là những kẻ nghịch Thiên, không biết luân hồi là chi cả.

                     Lấy chí Thánh dìu đời giác ngộ,

                     Dụng bạo tàn đâu phải chỗ an bang.

                                                (Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Sâu dân mọt nước bạo tàn,

Mua quan bán chức nhộn nhàng cân đai.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     Người hiền cứu sống theo phò chúa,

                     Kẻ dữ bạo tàn xác quạ tha.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BẠO TẦN 暴 秦

        Bạo: Hung dữ ngược ngạo. Tần: Nhà Tần.

        Bạo Tần chỉ nhà Tần bạo ngược, đốt sách chôn Nho, bắt dân xây Vạn Lý Trường Thành, khiến lòng người không phục, đó là dọn đường cho Lưu Bang lập nên nhà Hán sau nầy.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Luận xa hơn nữa, thiên hạ tưởng cái võ lực của họ là hơn hết, nếu võ lực quả nhiên bảo thủ cái sống của họ còn tồn tại, thì Sở Bá Vương kia, nào bạo Tần nọ, hỏi cái nghiệp của họ còn bền bỉ hay chăng, nếu không có thượng cờ nhơn nghĩa thì cái nghiệp Hớn không còn tồn tại tới 800 năm, không có thượng cờ nhân nghĩa thì nhà Châu chưa hề cướp đặng cái Đế vị của nhà Trụ.

Các con, nền Đạo bề ngoài coi diềm dà sung túc, mà chẳng thấy rõ cái mạch bịnh trong tâm, chẳng khác chi thế Sở chế bạo Tần,…

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BÁT

        1.- Bát là thứ đồ làm bằng sành, sứ hay gỗ, dùng để chứa đựng các thức ăn uống hoặc các thức khác.

        Như: Chén bát, bát đĩa, bình bát vu, bát nước trà.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Cơ hội ngàn năm một thuở, ví như Đấng Chí Tôn không khai mối Đạo Trời, cái đà sống của mỗi người chúng ta trong thời loạn là cần cù mưa nắng vì manh áo bát cơm, nay di cư chỗ nầy, mai đổi dời chỗ khác, phải chịu cảnh lầu Tần quán Sở, cay đắng trăm bề, trong lúc loạn ly thì vàng thau chung chạ, ngọc đá bất phân, ngoài ra còn bận bịu gánh thê nhi, não nề tình ấm lạnh, rồi đến khi Thiên số nan đào, thân cát bụi không còn để lại một dấu vết chi cho người đời nhắc nhỡ.

                     Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,

                     Thấy trên đường miểng bát, miểng chai,

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Gái nồi cơm bát nước đói no,

                     Trai thang thuốc ngày lo an vấn.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bát 八 là tám, con số đếm đứng trước số chín và sau số bảy.

        Như: Bát quái đồ thư, bát phẩm chơn hồn,thuyền bát nhã, bát trận đồ.

                     Xa trông cảnh vật đã xây tròn,

                     Bát hướng Đài ngừng thấy nước non.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

BÁT ÂM 八 音

        Bát : Tám, con số đếm đứng trước số chín và sau số bảy. Âm: Âm thanh, tiếng.

        Bát âm là tám loại âm thanh.

        Trong âm nhạc, người ta chia ra tám thứ tiếng: 1.-Bào: Tiếng sênh. 2.-Thổ: Tiếng trống đất. 3.-Cách: Tiếng trống da. 4.-Mộc: Tiếng mõ gỗ. 5.-Thạch: Tiếng khánh đá. 6.-Kim: Tiếng chuông đồng. 7.-Ty: Tiếng dây đàn. 8.-Trúc: Tiếng ống sáo tre.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bởi cớ nên dùng đến những vật bát âm, nó đã chết đi rồi như cái trống chẳng hạn, tấm da trâu ấy đã chết, mà với sự khôn ngoan loài người mà nó có tiếng kêu được, tức là làm cho nó sống lại được,

        Nghĩa bóng: Chỉ chung về âm nhạc.

Nơi Á Đông có câu: “Biều, thổ, cách, mộc, thạch, kim, dữ tư trước, nãi bát âm”.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BÁT BỬU 八 寶

        Bát: Tám, số đếm. Bửu: Báu, bửu bối.

        Bát bửu là tám món báu của Bát Tiên, tức là bửu bối của tám vị tu luyện thành Tiên ở núi Bồng Lai. Đó là: 1- Bầu của Lý Thiết Quả. 2- Quạt của Hớn Chung Ly. 3- Gươm của Lữ Đồng Tân. 4- Sanh của Tào Quốc Cựu. 5- Hoa Lam của Lâm Thái Hoà. 6- Ống Tiêu của Hàn Tương Tử. 7- Gậy của Trương Quả Lão. 8- Bông Sen của Hà Tiên Cô.

        Nơi Tòa Thánh Tây Ninh của Đạo Cao Đài, có đặt hai dàn Bát bửu ở hai bên song song và đối xứng nhau trước Chánh Điện thờ Đức Chí Tôn.

                     Bát bửu còn ai chẳng quý mà,

                     Nương đời dạy Đạo lắm công ta.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

                     Kìa trước Điện hai hàng Bát bửu,

                     Đã phô bày tả hữu hiển nhiên.

                                                (Lược Thuật Toà Thánh).

BÁT BỬU NANG 八 寶 囊

        Bát bửu: Tám món báu. Nang: Cái túi.

        Bát bửu nang là cái túi đựng tám món báu. Tám món báu ấy là: Hiếu, đễ, trung, tín, lễ nghĩa, liêm, sỉ.

        Theo Ngọc Lộ Kim Bàn, Đức Phật Mẫu lấy ra trong hộp Cửu Hoàn ở trước đài Thất Bửu một cái túi đựng tám món báu là: Hiếu, đễ, trung, tín, lễ nghĩa, liêm, sỉ, rồi dặn các chơn linh xuống thế phải giữ gìn tám món báu đó. Nếu bỏ mất món nào thì khó trở về ngồi tòa sen được.

                     Luyện thần kết tụ Tam huê đảnh,

                     Ngộ đạo thực hành Bát bửu nang.

                                                (Thơ Huệ Phong),

BÁT CẢNH CUNG 八 境 宮

        Bát Cảnh Cung là một toà cung điện nơi cõi Thiêng liêng có tám cảnh mà Đức Phật Mẫu dùng để vận chuyển bát hồn hoá thành chúng sanh.

        Vì vậy, nơi Báo Ân Từ tạm thờ Đức Phật Mẫu, Đức Hộ Pháp cho chia ra làm tám căn, mỗi căn đều treo cờ trên một tấm bảng nhỏ có đề “Bát Cảnh Cung kỳ 八 境 宮 旗”, nghĩa là cờ Bát Cảnh Cung.

                     Bát Cảnh Cung quỳ xinh áo trắng,

                     Tam Quan Cửa mở lộng mây xanh.

                                                (Thơ Hoàn Nguyên).

                     Bát Cảnh Cung, tầm phương bất tử,

                     Cửu Trùng Thiên, mở lối hằng sanh.

                                                (Thơ Hàn Sinh).

                     Một sớm về thăm Bát Cảnh Cung,

                     Trước đền Phật Mẫu ngắm hoa tùng.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

BÁT CHÁNH ĐẠO

        Hay “Bát chánh”.

        Bát chánh (chính): Tám thứ hoàn toàn, ngay thẳng, đúng với sự thật. Đạo: Con đường, tôn giáo.

        Bát chính đạo 八 正 道 hay Bát chánh, là con đường của sự hành trì chân chánh, tức là tám phương tiện hành động đưa chúng sanh đến một đời sống an lạc, dẫn đến mọi giải thoát khổ đau.

        Bát chánh đạo, còn gọi là “Bát Thánh đạo” thuộc nội dung của Đạo đế, tức phần thứ tư của Tứ Diệu Đế, gồm:

        1. Chánh kiến: Thấy biết rõ sự thật khổ đau và con đường tu tập đạt đến an lạc hạnh phúc.

        2. Chánh tư duy: Suy nghĩ đúng với chơn tánh của mọi sự vật.

        3. Chánh ngữ: Nói lời chơn thật, không nói láo, nói ác, nói hai lưỡi, nói phù phiếm.

        4. Chánh nghiệp: Hành động, việc làm không phạm giới, đúng với lẽ phải, có lợi ích cho mình, cho mọi người.

        5. Chánh mạng: Nuôi sống sanh mạng bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch, tránh làm các nghề như đồ tể, thợ săn…

        6. Chánh tinh tấn: Siêng năng cố gắng kiên trì tu tập thân tâm, nên làm việc thiện, tránh làm ác.

        7. Chánh niệm: Sống tỉnh thức, có ý thức về thân thể, cảm thọ, tâm hành…

        8. Chánh định: Giữ tâm ý an trụ tĩnh lặng, tâm không tán loạn, lắng đọng mọi vọng tưởng.

Trong Bát chánh đạo có hai Pháp môn quan trọng hơn hết là: Chánh kiến và Chánh định.

                                                (Giáo Lý).

BÁT ĐẠO NGHỊ ĐỊNH

八 道 議 定

        Bát đạo: Tám điều trong tôn giáo. Nghị định: Lời quyết nghị trở thành luật.

        Bát Đạo Nghị Định là tám nghị định quan trọng của Đức Lý Giáo Tông hiệp cùng Đức Hộ Pháp ký tên ban hành trong Đạo Cao Đài Tây Ninh, nhằm chỉnh đốn lại các cơ quan và cách hành Đạo.

        Bát Đạo Nghị Định được xem như là Thiên điều, không bao giờ thay đổi, bởi vì nó do Giáo Tông và Hộ Pháp, tức là quyền Chí Tôn tại thế lập ra.

        Bát Đạo Nghị Định được Lý Giáo Tông và Hộ Pháp lập ra vào hai thời kỳ:

        - Ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (Dl 22-11-1930), đàn cơ tại Cung Đạo Toà Thánh Tây Ninh, do Hộ Pháp, Bảo Văn Pháp Quân phò loan, Sĩ Tải Phạm Văn Ngọ từ hàn: Đức Lý Giáo Tông giáng cơ lập ra sáu Đạo Nghị Định, trong đó nhằm mục đích lập lại trật tự nền Đạo, phân quyền cho các phẩm chức sắc, đưa Đầu Sư Thượng Trung Nhựt lên làm Quyền Giáo Tông tại thế và giao cho Đức Hộ Pháp chú giải Pháp Chánh Truyền.

        - Ngày 16 tháng 7 năm Giáp Tuất (Dl 25-8-1934), đàn cơ tại Cung Đạo Toà Thánh, do Hộ Pháp, Tiếp Đạo phò loan, có Đức Thượng Phẩm trợ điển, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ lập thêm hai Đạo Nghị Định số 7 và số 8. Trong đó Đạo Nghị Định số 8 là quan trọng nhứt. Đạo Nghị Định số 8 nhằm mục đích tiêu diệt và ngăn ngừa các chi phái lồng vào nội bộ của Đạo.

Bần Đạo chưa ngó thấy Đức Lý ra Bát Đạo Nghị Định mà Ngài lập trọn vẹn hết, chúng ta cũng nên tôn sùng đáng kính, đáng sợ quá đổi Đấng cứu Đạo như thế, Bần Đạo cũng khen kính Người ấy cho đến ngày tận thế.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BÁT HỒN 八 魂

        Hay “Bát phẩm chơn hồn”.

        Bát phẩm: Tám phẩm cấp. Chơn (chân) hồn: Linh hồn hay chơn linh.

        Bát hồn hay “Bát phẩm chân hồn 八 品 真 魂”, là tám đẳng cấp tiến hoá của linh hồn.

        Theo Phật Mẫu Chơn Kinh, tất cả các chơn linh trong Càn khôn vạn vật được chia thành tám bực tuỳ theo sự tiến hoá cao thấp khác nhau. Thấp nhứt là Kim thạch hồn là loài kim loài đá; kế là Thảo mộc hồn là loài cây cối; Thú cầm hồn là loài chim thú; Nhơn hồn là con người, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn.

        Tám đẳng cấp chơn hồn này được gọi là bát phẩm chơn hồn, theo Đức Hộ Pháp là do trong Kim Bàn của Phật Mẫu mà hoá sanh ra, được gọi chung là vạn linh hay chúng sanh.

        Tám phẩm chơn hồn này được Đức Phật Mẫu cho đầu kiếp xuống trần, phải tu hành nhiều kiếp để tiến hoá lên, từ phẩm nầy lên phẩm kia, cho đến nhơn hồn, rồi nhơn hồn vẫn tiếp tục tu mãi để lên đến hàng Thần, Thánh, Tiên, và Phật hồn.

        1.- Bát hồn:

                     Vùng thoại khí bát hồn vận chuyển,

                     Tạo Hoá Thiên sanh biến vô cùng,

                                                (Kinh Tận Độ).

        2.- Bát phẩm chơn hồn:

Cứu nguy độ khổ là thường,

Vì rằng bát phẩm chơn hồn Mụ sanh.

                                                (Diêu Trì Kim Mẫu).

BÁT HỒN NHẠC KHÍ

八 魂 樂 器

        Bát hồn: Tám loại hồn do bát âm vận chuyển. Nhạc khí: Dụng cụ âm nhạc.

        Bát hồn nhạc khí tức là những dụng cụ âm nhạc dùng đến âm thanh của tám loại, gọi là Bát âm: Bào (tiếng sênh, kèn), thổ (tiếng trống đất), cách (tiếng trống da), mộc (tiếng mõ cây), thạch (tiếng khánh đá), kim (tiếng chuông), ty (tiếng dây tơ), trúc (tiếng sáo tre).

        Tám loại vật đó đã chết đi rồi, ví như cái trống, tấm da trâu của mặt trống đã khô chết, đánh lên cho nó kêu, như cái mộc, cây đã khô cứng, gõ cho nó kêu, tức làm cho nó sống lại được, nghĩa là Bát hồn ấy vận chuyển sống lại mà đảnh lễ Đức Chí Tôn trong lễ “Nhạc Tấu Huân Thiên”.

        Xem: Nhạc Tấu Huân Thiên.

                     Cửu phẩm liên hoa tu đạt vị,

                     Bát hồn nhạc khí tấu huân Thiên.

                                                (Thơ Huệ Phong).

BÁT HỒN VẬN CHUYỂN

八 魂 運 轉

        Bát hồn: Hay còn gọi là Bát phẩm chơn hồn 八 品 真 魂 do Đức Phật Mẫu tạo hoá ra. Đó là Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn.

        Vận chuyển: Dời động một vòng xoay.

        Bát hồn vận chuyển là tám phẩm chơn hồn được Đức Phật Mẫu tạo ra và cho đầu kiếp xuống trần tạo thành chúng sanh để tiến hoá.

         Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Bởi cớ nên dùng đến những vật bát âm, nó đã chết đi rồi như cái trống chẳng hạn, tấm da trâu ấy đã chết, mà với sự khôn ngoan loài người mà nó có tiếng kêu được, tức là làm cho nó sống lại được, nghĩa là Bát Hồn ấy vận chuyển sống lại mà đảnh lễ Đức Chí Tôn, vì cớ nên khi nghe Nhạc Tấu Huân Thiên là có âm thinh sắc tướng, song hiểu xác lý: Khi dâng lễ Chí Tôn quy pháp định, thấy và nghe cả Bát Hồn vận chuyển dâng cái sống cho Ngài.

Càn Khôn sản xuất hữu hình,

Bát hồn vận chuyển hoá thành chúng sinh.

                                                (Phật Mẫu Chơn Kinh).

                     Vùng thoại khí bát hồn vận chuyển,

                     Tạo Hoá Thiên sanh biến vô cùng,

                                                (Kinh Tận Độ).

BÁT NƯƠNG 八 娘

        Bát Nương hay Bát Nương Diêu Trì Cung là vị Tiên Nương đứng vào hàng thứ tám trong Cửu Vị Tiên Nương hay Cửu Vị Nữ Phật.

        Nơi Chánh Điện thờ tại Báo Ân Từ, Bát Nương mặc áo màu xanh, ngồi bên mặt Đức Phật Mẫu, tay cầm bửu pháp là Giỏ Hoa Lam.

        Bát Nương có nhiệm vụ tiếp rước các Chơn hồn lên tầng Phi Tưởng Thiên, là tầng Trời thứ tám, đưa Chơn hồn vào Cung Tận Thức, qua núi Phổ Đà nhờ Từ Hàng Bồ Tát cho cỡi Kim hẩu bay lên núi Tịch San để vào Cung Diệt Bửu.

         Bà Bát Nương có công rất lớn trong việc cùng với Thất Nương dẫn dắt các vị tiền khai Đại Đạo như Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm, Đức Thượng Sanh và Đức Quyền Giáo Tông... Ngoài ra, Bát Nương thường giáng cơ giáo hoá cho các môn đệ của Đức Chí Tôn, nhất là Nữ phái. Bà là vị Tiên Nương có tài văn chương xuất chúng, có thể nói Bà là một triết lý gia của Đạo Cao Đài, chính Bà đã giáng cơ cho bài “Phật Mẫu Chơn Kinh”. Một bài kinh gồm đủ mọi quan niệm: Quan niệm về Vũ trụ, quan niệm về nhân sinh, triết lý Tôn giáo, và con đường cứu rỗi của Cao Đài.

Bát Nương thật đấng chí linh,

Cùng chung giáo hoá ân cần lo âu.

                                                (Tán Tụng Công Đức).

                     Cô Bát Nương Hoa Lam tay xách,

                     Nhiệm vụ còn độ khách hồng trần.

                                                (Quang Cảnh Toà Thánh).

BÁT NGÁT

        1.- Bát ngát là rộng lớn bao la không biết đâu là cùng, tầm mắt không sao bao quát hết được.

        Như: Bốn bề bát ngát xa trông, đại dương bát ngát, cánh đồng bát ngát.

                     Xa nhà bát ngát lòng trông mãi,

                     Quạnh cảnh xơ rơ trí nghĩ nhiều.

                                                (Thơ Thượng Sanh).

        2.- Bát ngát cũng dùng để chỉ mùi hương lan toả rộng ra khaqwsp nơi.

        Như: Nhang thơm toả khói bát ngát, hương hoa huệ bay bát ngát.

                    Bát ngát mùi hương thấu chín trùng,

                     Nương lằn bạch hạc viếng đàn trung.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

                     Hương còn bát ngát chốn Nam giao,

                     Thoạt thấy phong ba vụt thổi ào.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

BÁT NHÃ 般 若

        Bát nhã là tiếng của nhà Phật, dịch âm từ chữ Phạn Prajna, dùng để gọi trí huệ,

        Trí Bát nhã được ví như con thuyền chở chúng sanh vượt qua biển luân hồi sinh tử sang đến bờ giác ngộ (Niết Bàn) giải thoát.

        Xem: Thuyền Bát nhã.

Nam Mô Tam Giáo diệu huyền,

Tuyệt luân Bát Nhã đưa thuyền độ vong.

                                                (Kinh Tận Độ).

Ngân Kiều Bát Nhã qua bờ,

Đưa duyên để bước kịp giờ siêu thăng.

                                                (Kinh Thế Đạo).

                  Trương thẳng cánh con thuyền Bát nhã,

                  Cổi đau thương giải quả trừ khiên.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BÁT QUÁI 八 卦

        Bát: Tám. Quái: Quẻ, dấu hiệu trong dịch, bói toán.

        Bát quái là tám quẻ.

        Nguyên vua Thánh Phục Hy đời Thượng cổ, bắt chước theo Hà Đồ mà vạch ra tám quẻ gọi là Bát quái, gồm có: 1.- Càn, tượng cho trời. 2.- Khôn, tượng cho đất. 3.- Ly, tượng cho mặt trời. 4.- Khảm, tượng mặt trăng. 5.- Chấn, tượng cho sấm. 6.- Tốn, tượng cho gió. 7.- Cấn, tượng cho núi. 8.- Đoài, tượng cho chằm.

        Trong đạo Cao Đài, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Khi chưa có chi trong Càn khôn Thế giới thì Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực.

        Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hoá vô cùng mới lập ra Càn khôn Thế giới.

        Ở đây, Bát quái là từ nói tắt của “Bát Quái Đài”, nơi ngự của Đức chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế và chư Thần , Thánh, Tiên, Phật.

        Xem: Bát Quái Đài.

        1.- Chỉ Bát Quái Đài nơi cõi Thiêng Liêng:

                  Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,

Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư.

                                                (Kinh Tận Độ).

                     Hay là hờn thế sự dại khôn,

                     Vào Bát Quái bảo tồn tri giác.

                                                (Văn Tế Tiểu Tường).

        2.- Chỉ Bát Quái Đài nơi Tòa Thánh:

Cửu Trùng, Bát Quái, Hiệp Thiên,

Ba Đài hiệp một dưới quyền Chí Tôn.

                                                (Lược Thuật Toà Thánh).

BÁT QUÁI ĐÀI 八 卦 臺

        Bát Quái: Tám quẻ. Đài: Tòa nhà cao.

        Bát Quái Đài là một cái đài cao có tám cạnh đều nhau, nằm phía sau Tòa Thánh, là nơi ngự của Đức Chí Tôn và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

        Đức Chí Tôn lập đạo Cao Đài với hình thể ba đài: Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài và Bát Quái Đài.

        Bát Quái Đài là phần vô hình thuộc về Đạo, tức là hồn của Đạo, do Đức Chí Tôn làm chủ lo phần siêu rỗi.

        Tại Toà Thánh Tây Ninh, nơi Bát Quái Đài có đặt một Quả Càn Khôn hình cầu màu xanh da trời, có đường kính 3 thước 3 tấc, trên đó có khắc 3072 ngôi sao, tượng trung cho vũ trụ gồm Tam thiên thế giới và Thất thập nhị địa. Phía trước Quả Càn Khôn vẽ Thiên Nhãn trên ngôi sao Bắc Đẩu.

        Dưới Quả Càn Khôn có đặt ba Long vị của Tam Vị Giáo Chủ: Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Thái Thượng Đạo Tổ bên hữu (trong nhìn ra), Khổng Thánh Tiên Sư bên tả.

        Hàng kế dưới có ba Long vị của Tam Trấn Oai Nghiêm: Lý Đại Tiên Trưởng ở giữa, Quan Âm Bồ Tát bên hữu, Quan Thánh Đế Quân bên tả.

        Nhìn theo hàng dọc từ trên xuống, ở giữa Thích Ca Mâu Ni là Phật Đạo, Lý Đại Tiên Trưởng là Tiên Đạo, kế tiếp đặt Long vị Gia Tô Giáo Chủ là Thánh Đạo, dưới nữa Long vị Khương Thượng Tử Nha là Thần Đạo. Ngoài ra, còn thờ các Long vị Thánh Tử Đạo.

        Bên trên nóc Bát Quái Đài có đắp tượng Tam Thế Phật là:

        Brahma Phật đứng trên lưng Thiên nga, day mặt về Tây, tay mặt bắt ấn, tay trái cầm bửu châu.

        Civa Phật đứng trên lưng giao long, mặt nhìn hướng Nam, tay mặt cầm kiếm chống xuống, tay trái chống nạnh.

        Christna Phật đứng trên Thất đầu xà, mặt nhìn hướng Bắc, cầm ống sáo thổi.

        Trên đây là Bát Quái Đài nơi Tòa Thánh, còn Bát Quái Đài nơi cõi Thiêng liêng, được Đức Hộ Pháp cho biết trong Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống là có tám góc, rất huyền bí và biến hoá vô cùng. Trong tám góc ấy có tám cây cầu bắc bằng tám đạo hào quang, dưới cầu là dòng Bích Hải, nước xao sóng dợn.

        Người tu đạt được Thiên vị thì vào Bát Quái Đài, còn nếu vì tội tình oan gia nghiệt chướng thì bị lọt xuống dòng Bích Hải.

                     Bát Quái Đài sững cao vòi vọi,

                     Nghinh Phong Đài chan chói huyền cơ.

                                                (Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

BÁT QUÁI ĐÀI LÀ HỒN

        Bát quái đài là hồn ý chỉ Bát quái đài nơi thờ Đức Chí Tôn biểu tượng cho linh hồn của Đạo.

        Đức Chí Tôn khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lần này không giáng trần, mà dùng huyền diệu cơ bút, nên Đạo Cao Đài chẳng có hình tướng Chí Tôn tại thế, chỉ mượn ba đài là Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài của Đạo làm hình thể Chí Tôn.

        Bát Quái Đài là hồn, Hiệp Thiên Đài là Chơn thần và Cửu Trùng Đài là xác thân của Đạo. Cả ba đài đó do chính Đức Chí Tôn làm chủ, và thể hiện sự giáng trần của Đức Chí Tôn trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.

                     Bát Quái Đài là Hồn tinh khiết,

                     Hiệp Thiên Đài vốn thiệt Chơn Thần,

                                                (Lược Thuật Toà Thánh).

BÁT QUÁI MẠO 八 卦 帽

        Bát quái: Tám quẻ của Dịch. Mạo: Cái mão.

        Bát Quái Mạo là một cái mão hình bát quái, có tám cạnh đều nhau, trong đó có thêu tám chữ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài bằng chứ Hán. Mỗi cạnh của Bát Quái Mạo, phía đầu trên hình tròn và ngả ra ngoài.

        Pháp Chánh Truyền quy định phẩm Đầu Sư, Chánh Phối Sư và Phối Sư Cửu Trùng Đài Nam phái đều đội Bát Quái Mạo khi hành lễ cúng Đức Chí Tôn. Màu sắc của Bát Quái Mạo tuỳ theo phái: Màu vàng phái Thái, màu xanh phái Thượng và màu đỏ phái Ngọc.

Đầu (Thái Đầu Sư) đội Bát Quái Mạo màu vàng, có thêu đủ tám cung chung quanh.

                                                (Pháp Chánh Truyền CG).

BÁT TIÊN 八 仙

        Bát: Tám. Tiên: Bậc Tiên.

        Bát Tiên là tám vị Tiên tu luyện đắc đạo ở núi Bồng Lai, gồm có: 1- Lý Thiết Quả. 2-Hớn Chung Ly. 3-Lữ Đồng Tân. 4-Hàn Tương Tử. 5-Trương Quả Lão. 6-Lâm Thái Hoà. 7-Tào Quốc Cựu. 8-Hà Tiên Cô.

        Trong Toà Thánh Tây Ninh, Đức Hộ Pháp dạy đắp hình Bát Tiên trên những đám mây lành ngũ sắc ở tấm diềm phía bên nữ phái của Bát Quái Đài.

Các Đấng Thiêng Liêng đã làm bạn với các sắc dân, nhứt là Huỳnh Tộc của chúng ta, tưởng cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết danh giá của Bát Tiên là thế nào?

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BÁT VU 缽 盂

        Bát: Cái bát đựng đồ ăn. Vu: Cái chén.

        Bát vu là cái bình đựng đồ ăn và nước uống của các vị tăng ni phái khất sĩ bên Phật giáo.

        Bình bát và chiếc áo Ca sa tượng trưng cho Phật pháp, cho nên các tông đồ bên Phật giáo vị nào được thầy truyền lại hai món báu nầy (Y và bát) tức là coi như làm tổ của tông phái đó: Bên Phật, gọi là truyền y bát.

        Trong đạo Cao Đài, bình bát vu được tượng trưng cho Phật giáo.

Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu,

Hiệp quy Tam Giáo hữu cầu chí chơn.

                                                (Phật Mẫu Chơn Kinh).

                     Bát Vu hành khất bữa mơi chiều,

                     Nương tưởng mình to giống kẻ thiêu.

                                                (Bát Nương Giáng bút).

BẠT

        1.- Bạt là tiếng Nôm, có nghĩa làm cho bị dạt đi một nơi khác.

        Như: Chiếc thuyền bị sóng đánh bạt đi, mỗi người bị bạt đi mỗi nơi, chim trời bạt gió.

                     Thuyền sớm ra khơi quày lại bến,

                     Chim chiều bạt gió hướng về non.

                                                (Thơ Thuần Đức).

        2.- Bạt 拔 là nhổ lên, cất lên, rút ra.

        Như: Bạt kiếm (rút gươm), đề bạt (chọn để đề cử lên), bạt tiến (cất nhắc lên).

                     Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát.

                     Bố từ bi tế bạt vong hồn,

                                                (Kinh Tận Độ).

BẠT TIẾN 拔 薦

        Bạt: Cất lên, đề cử. Tiến: Giới thiệu dâng lên.

        Bạt tiến là đề cử những chơn linh dâng lên các Đấng Thiêng liêng cứu giúp cho được siêu thăng tịnh độ.

        Những tín đồ Cao Đài nhập môn rồi, mỗi tháng ăn chay không đủ 10 ngày, hoặc không gìn giới luật của đạo, hoặc bị sa ngã, hay những người chưa nhập môn cầu đạo, khi chết muốn hành theo nghi thức đạo thì Chức việc Bàn Trị Sự tại địa phương đến hành theo nghi “Bạt tiến”.

        Khi hành nghi Bạt tiến thì:

        Không đọc bài kinh Khi Đã Chết Rồi.

        Không làm Phép xác và Phép Đoạn căn.

        Không làm Tuần cửu và Tiểu, Đại tường.

Hành lễ Bạt tiến, không làm phép xác, tụng kinh cầu siêu…

                                                (Quan Hôn Tang Lễ).

BẠT TUỴ SIÊU QUẦN

拔 萃 超 群

        Bạt Tuỵ: Trội hơn quần chúng. Siêu quần: Vượt lên trên mọi người.

        Bạt tuỵ siêu quần là người vượt hẳn đám quần chúng, tức là tài giỏi hơn mọi người.

Văn là thượng sĩ danh thần,

Võ thì bạt tụy siêu quần quân trung.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BÁU

        Báu là quý giá, tức những vật gì hiếm có mà người ta lấy làm quý trọng thì gọi là của báu.

        Như: Vật báu, món hàng quý báu.

        Nói về Quả Càn Khôn, Thánh giáo Thầy có dạy: Đáng lẽ Trái ấy phải bằng chai, đút trong một ngọn đèn cho nó thường sáng, ấy là lời cầu nguyện rất quý báu cho cả nhơn loại Càn khôn Thế giới đó.

                     Báu nhà chữ hiếu đứng làm đầu,

                     Biết Đạo thì con biết nghĩa sâu.

                                                (Đạo Sử).

Giá kia nào kể nên chăng,

Tay chân chàng để cũng bằng báu châu.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BÁU VẬT

        Báu: Quý giá. Vật: Từ chỉ chung các loài, các thứ trong trời đất.

        Báu vật là vật quý giá.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tìm đựơc mối Đạo mầu tức là chúng ta đã nắm vào tay một báu vật vô giá. Cái báu vật đó không hề mất được vì nó vô hình vô ảnh và chúng ta có thể chia nó ra làm muôn ngàn phần mà không hề sứt mẻ. Ta lại có bổn phận đem nó trao lại cho tất cả mọi người để

Toà sen báu vật xin đưa,

Chơn linh an ngự cho vừa quả duyên.

                                                (Kinh Tận Độ).

BÀU CÀ NA

        Bàu Cà Na là tên một cái bàu thiên nhiên ở khoảng đất trước cửa Chánh Môn, Toà Thánh Tây Ninh.

        Khi vẽ hoạ đồ cất Toà Thánh trên miếng đất do Hội Thánh vừa mới mua được, Đức Lý Giáo Tông lấy Bàu Cà Na làm điểm để định vị trí của ngôi Toà Thánh. Ngài dạy như sau: Ngoài Bàu Cà Na đo chừng 50 thước, đóng một cây nọc, ấy là khuôn viên Toà Thánh.

        Ngoài ra, Đức Lý còn dạy Hội Thánh mua khoảng đất Bàu Cà Na để làm Động Đình Hồ, làm tăng vẻ đẹp nơi Toà Thánh. Ngài dạy: Phải mua khoảnh đất Bàu Cà Na làm Động Đình Hồ, nghe à!

                     Lộ Chánh Môn bên trái rõ ràng,

                     Bàu Cà Na trũng giữa khang trang.

                                                (Thơ Huệ Phong).

BẮC

        1.- Bắc là để lên, gác lên, làm cho bên nọ tiếp liền với bên kia. Như: Bắc ván, bắc thang, bắc cầu.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy đã nói đạo đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắc cho các con leo đến phẩm vị tối cao tối trọng là ngang bực cùng Thầy, hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn nữa.

                     Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,

                     Tội nhơn qua ốc rởn dùn mình.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Cây trăm thước bắc thang bến khổ,

                     Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

        2.- Bắc 北 là tên một phương trong bốn phương, đối với hướng Nam. Như: Phương bắc, Sao Bắc Đẩu.

        Thánh giáo Đức Quan Thánh Đế Quân: Từ Nam chí Bắc, khắp Đông qua Tây, thỉnh thoảng trường náo nhiệt khởi động, diệt tàn kẻ vô đạo.

                     Gành Nam nêu đặng người tên tuổi,

                     Đất Bắc mừng an bước lạc loài.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Cội Bắc chim về chiều ngả bóng,

                     Non Nam ác lố ánh tan sương.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BẮC CẦU

        Bắc: Đặt, gác qua một khoảng cách. Cầu: Công trình xây dựng trên các mương hay sông rạch.

        Bắc cầu là nối tiếp bằng cây ván, bê tông vào giữa mương hoặc sông rạch để hai bên bờ có thể thông thương với nhau được.

Bắc cầu đắp sửa đường liền,

Kẻ qua người lại bước yên gọn gàng.

                                                (Kinh Sám Hối).

Còn con ô thước bắc cầu,

Mất con là cửa vô lầu lãnh cung.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẮC CẦU BỒI LỘ

        Bắc cầu: Nối tiếp bằng cây ván vào giữa mương hoặc sông rạch để hai bên có thể thông thương với nhau được.

        Bồi lộ: Bồi đắp đường lộ.

        Bắc cầu bồi lộ ý nói làm những việc phước đức, như nối cầu để người qua lại kênh, mương dễ dàng và đắp sửa đường đi cho liền lạc.

bắc cầu bồi lộ cho hành khách tiện bề qua lại; in thí kinh điển, thiên thơ cho mọi người coi theo hầu cải tà quy chánh,…

                                                (Phương Châm Hành Đạo).

BẮC DU 北 遊

        Bắc: Phương Bắc, ở đây chỉ miền Bắc. Du: Đi chơi.

        Bắc du là nói Đức Hộ Pháp đi ra miền Bắc Việt Nam.

        Tháng mười năm Canh Dần 1950, Đức Hộ Pháp mở chuyến Bắc du, Ngài cùng phái đoàn đến tại Hà Nội thăm bổn đạo Cao Đài. Mặc dầu vào độ tiết Đông lạnh lẽo, nhưng bổn đạo nơi xứ Bắc Hà nhận được tình ấm áp nơi Đức Hộ Pháp đã sưởi ấm tinh thần trong mỗi tín đồ.

        Lúc ấy trong tình cảnh đất nước khó khăn, được Đức Hộ Pháp không nệ Bắc Hà xa xôi, thân hành đến để lời phủ giáo về tình hình quốc nội và vai trò của tôn giáo Cao Đài đang trong xứ mạng thực hiện cơ cứu khổ và cứu thế của Đức Chí Tôn giao phó.

        Trong chuyến Bắc du nầy, Đức Hộ Pháp có tiếp xúc với các nhân sĩ, trí thức, các giới nhân dân và đồng Đạo. Ngài có lời tuyên bố: Nền độc lập của nước nhà không ai có giữ mà ta phải đòi, hỏi xin. Trái lại, ta phải đoàn kết cùng nhau để tạo thành, vì độc lập chính là sở hữu của ta.

        Nhiệm vụ của người công dân khi quốc gia hữu sự, một điều quan trọng là tất cả các thanh niên, học sinh cần biết là Quốc thể của một dân tộc, nhưng Quốc thể của một nước tức là sự tập họp một khối của những cá nhân nước ấy. Vậy thì mỗi công dân một nước phải có một cá thể đã, cá thể của một người là nhân cách và nhân phẩm của người đó vậy, mà muốn cho cá thể xứng đáng thì ông cha chúng ta đã để lại hai chữ vô cùng quý báu, ấy là “Tu Nhân” vậy.

        Trong chuyến Bắc du này, Ngài có làm bài thi ở Hà Nội: “Non nước hồn thiêng đã tỉnh dần, Xuân thu xưa nay đổi thu xuân. Nam phong đỡ vững xa thơ Hán, Bắc tục xô nghiêng đảnh nghiệp Tần. Bác ái là đề thi tiến hoá, Nghĩa nhân ấy mục định duy tân. Thiên thời địa lợi đôi điều sẵn, Chỉ thiếu hoà nhân để hiệp quần”.

Hồi hương hơn bốn năm qua,

Bắc du nhớ lúc Ngài ra Hải Phòng.

                                                (Quang Cảnh Toà Thánh).

                     Bao phen giáo hoá Âu, Phi, Á,

                     Còn tạc danh thơm chuyến Bắc du.

                                                (Thơ Lan Chi).

BẮC ĐẨU 北 斗

        Bắc: Hướng bắc. Đẩu: Tên ngôi sao.

        Bắc đẩu là một ngôi sao sáng nằm ở phương bắc. Sao Bắc đẩu là một định tinh gồm bảy ngôi sao, gọi là Thất tinh. Bốn vì sao hình cái đầu, ba sao hình cái cán hay cái chuôi.

        Theo truyền thuyết, Bắc Đẩu còn là vị thần giữ bộ tử của loài người.

        Trong Đạo Cao Đài, ngôi Bắc Đẩu là nơi ngự của Đức Chí Tôn, nên Thánh giáo Thầy có dạy Ngài Thái Bính Thanh như sau: Tại ngôi Bắc Đẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Đẩu cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc Đẩu, vẽ Con Mắt Thầy, hiểu chăng?

                  Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Đẩu,

                  Kìa im đìm phúc hậu Nam Tào.

                                                (Kinh Tận Độ).

BẮC ĐẨU BỘI TINH

北 斗 佩 星

        Bắc Đẩu: Ngôi sao Bắc Đẩu. Bội tinh: Một thứ huy chương hình ngôi sao, đeo ở trước ngực.

        Bắc Đẩu Bội Tinh là một loại huy chương dưới thời Pháp thuộc dành ban thưởng cho người có công trạng. Ngài Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung khi còn làm việc cho chính phủ Pháp đã được ban tặng Bắc Đẩu Bội Tinh Đệ Ngũ Đẳng vào ngày 18- 05-1912.

        Khi Ngài được Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban cho quyền Giáo Tông hữu hình thì một số ít chức sắc Thiên phong sinh lòng đố kỵ, tìm cách buộc tội, công kích, hãm hại Ngài.

        Ngài đã bị Toà án tỉnh Tây Ninh kết tội: Cho công quả đánh xe bò ban đêm, không thắp đèn hiệu, bò thiếu dây buộc ách và một số người đạo công quả thiếu thuế, nên bị phạt giam 2 ngày.

        Ngài khăn áo chỉnh tề, mình đeo Bắc Đẩu Bội Tinh đến khám đường Tây Ninh để chịu giam hai ngày rưỡi, rồi sau đó Ngài viết một bức thư gởi trả Bắc Đẩu Bội Tinh cho chính phủ Pháp.

                     Tây Ninh Thánh Địa mong khai sáng,

                     Bắc Đẩu Bội Tinh chẳng đoái hoài.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

                     Phước địa Tây Ninh nguyền mở Đạo,

                     Bội Tinh Bắc Đẩu trả cho Đời.

                                                (Quang Cảnh Toà Thánh).

BẮC ĐẨU NAM TÀO

北 斗 南 曹

        Bắc Đẩu, Nam Tào là tên hai vì sao mọc đối nhau ở hai hướng bắc và nam.

        Theo truyền thuyết trong dân gian, Bắc Đẩu Nam Tào còn là tên hai vị thần giữ bộ sinh và bộ tử của loài người nơi cõi trần.

        Xem: Nam Tào Bắc Đẩu.

                     Cổ vắn khó trương lên Bắc Đẩu,

                     Hơi dài không thấu đến Nam Tào.

                                                (Thơ Đức Hộ Pháp).

                     Đài thượng đồng xem qua Bắc Đẩu,

                     Ngôi sao sáng chói thấu Nam Tào.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

BẮC KHUYẾT 北 闕

        Bắc: Phía bắc. Khuyết: Cái cổng, trên cổng có xây lầu để quan sát.

        Bắc khuyết là chỗ vua ngự. Ngày xưa người ta bao giờ cũng dựng cái khuyết nằm về phía bắc để hướng về đó lạy vua, vì vua day mặt về nam.

        Trong Tôn giáo Cao Đài, Bắc Khuyết là Huỳnh Kim khuyết ở về hướng Bắc, đó là một cái cổng bằng vàng ròng nơi cõi Thiêng Liêng.

        Bắc Khuyết dẫn vào Ngọc Hư Cung, Linh Tiêu Điện là nơi họp triều nghi của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.

        Đôi liễn bên Minh Sư có câu: Cao như Bắc Khuyết nhân chiêm ngưỡng, Đài tại Nam phương Đạo thống truyền 高 如 北 闕 人 瞻 仰, 臺 在 南 方 道 統 傳, nghĩa là Cao như Huỳnh Kim Khuyết ở hướng Bắc, nhân sanh đều chiêm ngưỡng, Đài cao tại phương Nam là mối Đạo lớn thống quản tất cả và truyền khắc nơi.

        1.- Chỉ cổng thành dẫn vào chỗ vua ngự:

                     Cô thành khí liệt theo làn gió,

                     Bắc khuyết lòng trung lẫn bóng sương.

                                                (Thơ Đào Công).

        2.- Chỉ Cổng Huỳnh Kim Khuyết:

                     Nay gác bút hoa về Bắc khuyết,

                     Anh linh xin hộ khách trần ai.

                                                (Thượng Cảnh Thanh).

BẮC NAM 北 南

        Bắc Nam là phương bắc và phương nam. Vì hai hướng đó nằm đối nhau nên được dùng để chỉ sự xa cách hoặc để diễn tả sự gặp gỡ khó khăn.

        Trong Hoa Tiên Truyện có câu: Bắc năm muôn dặm đường chim,Vì ai bèo nổi mây chìm bấy lâu.

        Bắc Nam còn dùng để chỉ miền Bắc và miền Nam nước Việt Nam.

        Lời hỏi Đức Hộ Pháp của Ngài Thượng Sanh trong Đàn cơ ngày 9 tháng 7 năm Bính Ngọ (dl 24-8-1966) tại Giáo Tông Đường có câu: Hội Thánh xin Đức Ngài cho dời liên đài của Đức Ngài về nơi Thánh địa, vì nếu đợi cho Bắc Nam thống nhứt theo Di ngôn của Đức Ngài thì không biết đến ngày nào mới thực hiện được.

                     Hiềm đang tranh chấp chia bờ cõi,

                     Cầu nguyện Bắc Nam hiệp nhứt phương.

                                                (Thơ Huệ Giác).

Bắc Nam hiệp Tổ Hùng Vương,

Xúm nhau nâng nổi miếu đường Việt Nam.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẮC TÔNG 北 宗

        Bắc: Hướng bắc. Tông đạo: Tất cả các tín đồ Cao đài trong một nước, một vùng hay một dân tộc hợp lại mà thành. Như: Tông đạo bắc phần, Tông đạo Đường nhơn.

        Bắc Tông hay Bắc Tông Đạo là khu vực đạo Cao Đài ở xứ Bắc, tức gồm những tín đồ trong các tỉnh Đạo thuộc Bắc phần Việt Nam.

                     Vui lòng kẻ ở miền Nam bộ,

                     Phấn chí người đi xứ Bắc tông.

                                                (Thơ Thông Quang).

BẰM

        Bằm là vằm, chặt, bổ liên tiếp bằng vật sắc cho nát, cho vụn ra.

        Như: Thịt bằm, dùng cuốc bằm đất cho kỹ để gieo hột, đồ chết bằm.

Nhớ khi dao khứa máu trào,

Nhớ khi bằm xắt nấu xào hầm kho.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

                        Bằm tương ruột nát nhìn linh cữu.

                        Khoả đất vàng lên, mả hiện ngôi.

                                                (Thơ Hoàn Nguyên).

BĂN KHOĂN

        Băn khoăn là không yên lòng vì đang có những điều bắt phải nghĩ ngợi.

        Như: Còn đang băn khoăn vì chưa biết phải làm như thế nào, tâm trạng rất băng khoăn ray rứt.

                     Nỗi nhớ băn khoăn lòng chín khúc,

                     Tình thương chồng chập núi bao tầng.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BẮN

        Bắn là phóng tên hay đạn bằng tác dụng của một lực đẩy mạnh và xa. Như: Bắn súng, bắn cung, bắn tên.

        Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Cái quyền của Đạo, quỳ hương, tụng Kinh Sám Hối, đáo để trục xuất Nội Thành nơi Thánh Địa, rồi còn dữ hơn nữa trục xuất ra khỏi Đạo chớ chưa có giết ai, chưa có tù tội ngục hình, cũng chưa có đem ai mà bắn, mà giết bao giờ, ấy là Luật của Đạo.

Trói người vào đó xát chà,

Vì chưng hung bạo đốt nhà bắn săn.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Cây, cỏ, thú, người đều trở ngược,

                     Gươm đâm, tên bắn chết trùng trùng.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

BẮN BÌNH

        Bắn: Dùng cung để phóng tên đi.

        Bình 屏: Bức bình phong.

        Bắn bình là bắn vào mắt hình con chim sẻ trong bức bình phong, chỉ sự kén rể.

        Do tích Lý Uyên, tức Đường Cao Tổ, bắn trúng mắt chim sẻ ở bức bình phong, được Đậu Nghị gả con gái cho. Ấu Học có câu: Xạ tước bình nhi trúng mục, Đường Cao đắc thê 射 雀 屏 而 中 目, 唐 高 得 妻, nghĩa là bắn trúng mắt chim sẻ ở bình phong, ông Đường Cao Tổ được vợ.

        Xem: Bể bình Lý Uyên.

                     Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,

                     Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẮN SẺ

        Bắn: Dùng cung để phóng tên đi. Sẻ: Chim sẻ.

        Bắn sẻ, bởi chữ “Xạ tước bình 射 雀 屏”, tức là bắn chim sẻ trong bức bình phong.

        Do tích Lý Uyên (sau là vua Đường Cao Tổ) bắn trúng ngay mắt chim sẻ trên bức bình phong, được Đậu Nghị chọn làm rể. Bắn sẻ chỉ sự kén vợ,

        Xem: Tước bình.

                  Tài bắn sẻ trai dầu chẳng thiếu,

                  Thì phép hoà tiêu gái liệu cho vừa.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BĂNG

        1.- Băng là vượt ngang qua bằng con đường ngắn hơn, không theo lối đi sẵn có.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Người hành Đạo mà thiếu chí thành cũng chẳng khác chi người băng rừng lúc ban đêm mà trong tay không có ngọn đuốc để chỉ đường dẫn hướng, vì chí thành là căn bản của con người thuần túy.

Biết căn tầm lối băng về,

Đoạn dây oan nghiệt đặng kề Ngọc Kinh.

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo).

                     Nặng mang xác thịt hiểm nghèo,

                     Mà còn lội suối, băng đèo khổ tâm.

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo).

        2.- Băng 冰 là nước đông cứng thành khối ở những nơi có khí hậu lạnh.

        Như: Băng tuyết, ở miền Bắc nước ta mùa đông nước lạnh đóng thành băng.

                     Băng tuyết tấm gương gìn vẹn vẽ,

                     Liên đài chín phẩm tiếng còn khen.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

BĂNG NGÀN

        Băng: Đi ngang qua bằng con đường ngắn hơn, không theo lối đi sẵn có. Ngàn: Rừng.

        Băng ngàn là vượt qua rừng, ý chỉ đường đi gian nan, vất vả. Thí dụ như thành ngữ: Vượt núi băng ngàn.

Chẳng từ ô trược dương gian,

Vì thương trẻ mới băng ngàn viếng thăm.

                                                (Diêu Trì Kim Mẫu).

                     Thương Mạnh Quang băng ngàn xe đẩy,

                     Tùng bước chồng chẳng thấy truân chuyên.

                                                (Thất Nương Giang Bút).

BĂNG TUYẾT 冰 雪

        Băng: Nước lạnh đông cứng lại. Tuyết: Hơi nước trên không gặp lạnh đông lại và rơi xuống.

        Băng tuyết là băng và tuyết, dùng để ví sự trong sạch, hoặc lòng trong trắng của người đàn bà.

        Xem: Băng hồ.

                     Khí trong trẻo dường như băng tuyết,

                     Thần im đìm dường nét thiều quang.

                                                (Kinh Tận Độ).

                     Mượn men sưởi mãi hồn băng tuyết,

                     Đem ngọc giấu vào vỏ ốc bươu.

                                                (Thơ Hoàn Nguyên).

BĂNG THANH 冰 清

        Băng: Nước gặp lạnh đông lại. Thanh: Trong sạch.

        Băng thanh là trong sạch như băng giá, chỉ hành vi trong trắng. Người xưa thường dùng chữ “Băng thanh”  như chữ “băng ngọc” để ví với đức hạnh.

        Như: Băng thanh ngọc khiết, nhứt phiến băng thanh tại ngọc hồ.

                     Lời hẹn thuỷ chung gìn tín nghĩa,

                     Nghìn thu rực rỡ tấm băng thanh.

                                                (Thơ Thuần Đức).

                     Băng thanh thề trọn với tình lang,

                     Thấm thoát rừng phong lá trổ vàng.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BẰNG

        1.- Bằng là giống nhau, ngang nhau, có ý so sánh. Như: Giá tiền bằng nhau, hai đứa cao bằng nhau.

        Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Hạnh khiêm nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng. Các con phải khiêm nhường sao cho bằng Thầy.

                     Mình biết phận mình an thú vị,

                     Chẳng phen bằng Phật cũng là Tiên.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Vàng chứa đầy kho chẳng ích chi,

                     Sao bằng chứa đức cháu con ghi.

                                                (Đạo Sử).

        2.- Bằng cũng như chữ “Bình”, là phẳng, không chếch lệch, trên đó có các điểm ở cùng một độ cao.

        Như: San đất cho bằng, ngồi xếp bằng, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng (Ca dao).

Anh em bạn tác vầy đông,

Xô thành cũng ngã, lấp sông cũng bằng.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

        3.- Bằng còn có nghĩa là nếu, ví như, coi như.

        Như: Ví bằng nó không trả tiền thì tôi cũng đành lòng, cầm bằng, bằng nay bốn bể không nhà.

        Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Lão cũng hết lòng chiều theo tánh từ bi của Đức Thượng Đế, bằng chẳng thì Lão xuống tay bôi xoá hết trường công quả Đại Đạo, thì chúng sanh hết trông mong, mà kẻ chác tội lỗi cũng khó bề lấy sức phàm phu để gây nên rối rắm nữa.

                     Ví bằng ai hỏi sao bao nả?

                     Rằng trẻ noi sau biến hoá già.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

        4.- Bằng là bởi cái gì mà làm ra.

        Như: Quả chuông đúc bằng đồng, cái áo nầy bằng hàng mỏng, cán bút nầy bằng sừng.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Đáng lẽ Trái ấy phải bằng chai, đút trong một ngọn đèn cho nó thường sáng, ấy là lời cầu nguyện rất quí báu cho cả nhơn loại Càn khôn Thế giới đó.

Đời Hớn, ngươi Lưu Khoan làm quan, hễ dân có tội thì đánh bằng roi lát cho biết nhục vậy thôi;

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

        5.- Bằng 憑 là căn cứ vào, dựa vào đấy để làm tin, chứng cớ.

        Như: Anh lấy gì làm bằng, có đủ giấy tờ làm bằng không?, tờ giấy nầy dùng làm bằng, bằng chứng.

Các con có đủ bằng chứng để tự biết mình do sự thăng phẩm vị thiêng liêng.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

        6.- Bằng 鵬 là chim bằng, hay còn gọi chim đại bàng, là một loài chim có đôi cánh lớn, gặp gió thì bay cao. Thường ví với sự vẫy vùng của kẻ có tài mà gặp thời.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Thật vậy, sau 5 năm mấy tháng lưu đày. Đức Ngài hồi hương với một tinh thần cao siêu hơn, một tâm linh cao đẹp hơn, một chí thành cứng rắn hơn. Chim bằng đã dưỡng sức từ bấy lâu nay chớp cánh bay tận bốn phương trời, mặc sức vẫy vùng giữa chốn ngàn mây dặm gió.

                     Bể hoạn trong theo làn sóng bạc,

                     Cánh bằng cao lướt dặm mây xanh.

                                                (Thơ Thuần Đức).

                     Trời Âu thuận gió bằng tung cánh,

                     Đất Việt thừa cơ sáo sổ lồng.

                                                (Thơ Vạn Năng).

BẰNG CHỨNG 憑 證

        Bằng: Nương vào, dựa vào. Chứng: Làm bằng cớ.

        Bằng chứng là vật hoặc việc dùng làm bằng để chứng tỏ sự việc là có thật.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo nhắc lại, Đức Chí Tôn đã hứa với con cái của Ngài những gì ngày nay chúng ta đã thấy, Ngài cho chúng ta y theo lời hứa, Bần Đạo đứng tại tòa giảng đây chứng chắc như thế, bởi những công nghiệp phi thường tạo thành trong thời gian qua để làm bằng chứng.

Các con có đủ bằng chứng để tự biết mình do sự thăng phẩm vị thiêng liêng.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BẰNG ĐỊA

        Hay “Bình địa”.

        Bằng (bình): Bằng phẳng. Địa: Đất.

        Bằng địa, như chữ “Bình địa 平 地”, là đất bằng, ý nói vùng đất yên ổn.

        Bằng địa còn có nghĩa là đất bằng, thường dùng để chỉ cảnh cả một vùng đất bị tai biến, không còn nhà cửa, cây cối. Như: Đất bằng nổi phong ba, đất bằng dậy sóng.

                  Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,

                  Bằng địa sóng xao khiến rập rình.

                                                (Đạo Sử).

BẰNG HỮU 朋 友

        Bằng: Bè bạn. Hữu: Anh em bạn.

        Bằng hữu là bạn bè.

        Người xưa quan niệm rằng: Nữ vô minh kính, bất tri diện thượng tinh thô; sĩ vô lương hữu, bất tri hành bộ khuy du 女 無 明 鏡, 不 知 面 上 精 粗; 士 無 良 友, 不 知 行 步 虧 踰, nghĩa là người đàn bà nếu chẳng có gương trong để soi mặt thì làm sao biết mặt mình dơ, hay sạch. Kẻ sĩ nếu chẳng có bạn hiền, thì ai mách cho mình những lỗi lầm.

        Như vậy việc kết bằng hữu rất cần thiết, nhưng muốn giao thiệp bạn bè, phải chọn người hiền lương, tín cẩn. Cách chọn bạn của cổ nhân thường rất kỹ lưỡng, bởi họ cho rằng: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

        Khi bạn bè đã kết nguyền với nhau rồi, ta phải có lòng thành thật đối đãi với nhau, phải tin cậy và kính nhường để giữ niềm hoà ái, tương trợ tương thân. Anh em phải khuyên bảo nhau, giúp đỡ lẫn nhau, nếu có lỗi lầm, phải sửa đổi lẫn nhau, nghèo nàn phải thương yêu nhau, hoạn nạn phải cứu giúp nhau.

Anh em bằng hữu kết nguyền,

Một lòng tin cậy phải kiêng phải vì.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Đối cùng bằng hữu hết tình quảng đại.

                     Xử với gia đình trọn ngãi từ hoà,

                                                (Văn Tế Quyền Giáo Tông).

BẲNG

        1.- Bẳng, bởi chữ “Bằng”, vì nằm trong một câu thơ, do luật bằng trắc mà đọc thành, có nghĩa là ngang nhau, giống nhau.

        Như: Chi bẳng (chi bằng), so bẳng (so bằng), đâu bẳng (đâu bằng).

                     Chi bẳng một bầu đầy nhựt nguyệt,

                     Thông minh miệng thế mặc dò đon.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Ở hay đâu bẳng cách ăn hay,

                     Dầu chẳng thiệt may cũng đủ mày.

                                                (Đạo Sử).

                     Sự nên hư định liệu phải thừa,

                     Quyền thầy dạy cũng chưa so bẳng.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bẳng tức là chữ “Bằng”, có nghĩa là nếu, ví như.

        Sở dĩ đọc “Bẳng” là vì nằm trong câu thơ nên chịu luật bằng trắc mà đọc thành. Như: Ví bẳng, sao bẳng.

                     Đường tu ví bẳng không lo trước,

                     Đền điện Lương Vương phải cháy tiêu.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Thà xưa ví bẳng nay gìn vậy,

                     Lòng Mẹ ngại ngùng, con hỡi con!

                                                (Diêu Trì Kim Mẫu).

BẮP

        Bắp còn gọi là ngô, một loại cây có trái bằng bắp tay, có nhiều hột bọc quanh cùi.

        Hột bắp có thể thế lương thực như gạo, nếp để nấu ăn đỡ đói. Như: Bắp nếp, bắp ngọt, gạo bắp.

                     Cửa Sàigòn tính bán áp chế nội hàng,

                     Gạo bắp chở ngoại bang giành phần xuất cảng.

                                                (Ngụ Đời).

BẮT

        1.- Nắm lấy, vớ lấy, giữ lấy, theo đến nơi mà giữ lại. Như: Bắt cướp, bắt trộm, bắt chim.

        Thánh giáo Đức Thích Ca Mâu Ni Phật viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chuyển Phật Giáo Nam phương có dạy: Khi lập đạo Thánh thì đặng mười hai môn đệ, song đến khi bị bắt và hành hình thì chúng nó đều trốn hết, lại còn bán xác Thầy nữa.

                     Chờ gặp cơn hoa cợt đài trăng,

                     Bủa lưới bắt ả Hằng đem nhốt rọ.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bắt có nghĩa rộng là dùng trí khôn mà tìm xét được những sự ẩn vi.

        Như: Bắt ấn, bắt quyết. Nghĩa rộng nữa là noi theo, như bắt chước.

                     Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,

                     Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

        3.- Bắt có nghĩa là phát hiện sự việc đáng chê trách của người khác, ép buộc phải chịu trách nhiệm.

        Như: Bắt bí, bắt lỗi, bắt phạt, bắt tức cười.

                     Thay đời chẳng phải một tên ngươi,

                     Thấy phách lối kia bắt nực cười.

                                                (Đạo Sử).

                     Bao thuở đầu non chim vắng dạng,

                     Thị thiềng càng thấy bắt buồn tanh.

                                                (Đạo Sử).

        4.- Bắt là làm cho liên lạc với hoặc nối thêm vào.

        Như: Bắt hơi men, bắt thèm, bắt điện vào nhà, bắt vòi dẫn nước, bắt đài ngoại quốc.

                     Cũng như người ghiền rượu đã quen,

                     Hễ vừa bắt hơi men thì ngáp vắn.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Đừng sanh con đời thấy bắt nhờm,

                     Tránh nòi dữ bằng hơn tránh rắn.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẮT ẤN

        Bắt: Nắm lấy, giữ lấy. Ấn: Ấn quyết, là pháp thuật của chư Tiên Phật, hay bọn phù thuỷ dùng tay làm phép để trấn ếm, trừ ma quỷ.

        Bắt ấn là chư vị Thiêng Liêng hoặc thầy phù thuỷ dùng mười ngón tay đan tréo vào nhau làm ấn quyết để làm phép trấn áp ma quỷ.

        Trong Đạo Sử của bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Lý Giáo Tông dạy Hộ Pháp, Thượng Phẩm có câu: Nhị vị Hiền Hữu lên bàn đứng theo phẩm mình đợi Luật đến, bái tiếp rồi Hộ Pháp bắt ấn tay mặt của Hộ Pháp mà để trên chồng Luật ấy.

                     Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,

                     Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BẮT BÉN

        Bắt: Bám chặt, cái nầy tác động vào cái kia. Bén: Chạm tới và bắt đầu tác động.

        Bắt bén là bắt đầu bén lửa. Như: Củi ở bếp mới vừa bắt bén, coi chừng tắt ngủm.

        Bắt bén còn có nghĩa là được nước mà làm tới, hay quen thói. Như: Nay cho nó mượn tiền, lần sau nó bắt bén đến mượn nữa.

                     Cửa Đạo lặng trang lời quyến rũ,

                     Mùi thiền bắt bén thú tương dưa.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BẮT CHƯỚC

        Bắt: Nắm lấy, vớ lấy, giữ lấy. Chước: Cách khôn khéo trong việc xử lý một công việc, mưu chước.

        Bắt chước là làm theo kiểu của người khác một cách máy móc.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Giáo Sư Thái Bính Thanh làm Quả Càn Khôn có câu như sau: Con giở sách Thiên văn tây ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc Đẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Đẩu cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc Đẩu, vẽ Con Mắt Thầy, hiểu chăng?

                     Khá bắt chước nhuần lo độ chúng,

                     Dầu nên thành Phật cũng Bồng Lai.

                                                (Đạo Sử).

                     Coi anh chị nét hay bắt chước,

                     Đừng nhỏ mà lấn lướt muốn khôn qua.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẮT GIÓ NẮN HÌNH

        Bắt gió: Chận bắt ngọn gió, ý chỉ việc từ cái không. Nắn hình: Tạo ra hình, ý chỉ làm ra có.

        Bắt gió nắn hình ý nói làm việc từ cái không làm ra cái có, như không tiền của, vật liệu mà xây dựng nên nhà cửa khang trang.

                     Bắt gió nắn hình nên thể pháp,

                     Đổi không ra sắc rõ huyền linh.

                                                (Thơ Vạn Năng).

BẶT

        Bặt là dứt, im lặng, tức không để lại dư âm hoặc tin tức gì cả.

        Như: Lời ca cất lên rồi bặt đi, vắng bặt, bặt vô âm tín, tiếng súng im bặt.

                     Lồng sương gió thoảng bặt hơi xuân,

                     Để bước tìm nơi Đạo gội nhuần.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,

                     Đêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.

                                 (Bát Nương Guiáng bút).

Chừ sao chăn chiếu lạnh lùng.

Phím loan nín bặt, tranh tòng đứt dây.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẶT TĂM

        Bặt: Im lặng, tức không để lại dư âm hoặc tin tức gì. Tăm: Dấu vết, hay hình dáng của người hoặc cái đang tìm.

        Bặt tăm, như chữ “Biệt tăm”, là hoàn toàn không còn thấy dạng, hoặc không biết được tin tức.

        Như: Mấy năm nay anh ấy đi đâu mà bặt tăm.

Tiếc thay một gánh cơ đồ,

Xa thơ khuất dấu ngọn cờ bặt tăm.

                                                (Ngụ Đời).

BẶT TĂM HƠI

        Bặt: Im lặng, tức không để lại dư âm hoặc tin tức gì.

        Tăm hơi: Dấu hiệu nhờ đó có thể biết về sự có mặt của người nào hoặc cái gì đang tìm kiếm.

        Bặt tăm hơi, như chữ “Bặt tăm”, là hoàn toàn không thấy tăm hơi nào cả.

        Xem: Bặt tăm.

                     Tưởng khúc Nghê thường mơ bóng dáng,

                     Chờ người cung Quảng bặt tăm hơi.

                                                (Thơ Hoàng Nguyên).

BẬC

        1.- Bậc là tầng, nấc, từ bậc dưới lên bậc trên.

        Như: Bậc thang, bậc cung cầm, bậc phẩm, giỏi vào bậc nhất, tiến bộ vượt bậc.

        Thánh giáo Thầy có câu: Mỗi bậc phẩm đều đặng một vai tuồng của Đấng cầm quyền thế giới ban cho, dầu thanh cao, dầu hèn hạ, cũng phải gắng làm cho rồi trách nhậm, hầu buổi chung cuộc, hồn lìa cõi trần, đặng đến nơi khởi hành mà phục hồi công cán.

                     Nào khi đứng lúc ngồi đủ mặt,

                     Qua tường đông lóng bậc tơ đồng.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

Ta than lỗi bậc cung cầm,

Nàng sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

        2.- Bậc là từ dùng để chỉ người thuộc hàng đáng tôn kính. Như: Bậc anh hùng, bậc cha mẹ.

        Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Thưởng phạt tuy chẳng phải hữu hình, nhưng là một sự mừng vui, chưa có bậc cao thượng ở thế nào bằng, và một sự buồn bã nào sánh đặng.

                     Say Đạo là say bậc Thánh Hiền,

                     Hiền xưa sớm để bước tầm Tiên.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BẬC PHẨM

        Bậc: Hạng, thứ xếp theo trình độ cao thấp, trên dưới. Phẩm: Bực quan hay bực chức sắc tôn giáo.

        Bậc phẩm, như chữ “Phẩm bậc”, là cấp bậc của quan lại hay các chức sắc tôn giáo.

        Đồng nghĩa với chữ “Phẩm trật 品 秩”.

        Bậc phẩm còn có nghĩa là thứ bậc về phẩm chất của hàng hoá hay phẩm cách con người.

        Thánh giáo Thầy có câu dạy: Thầy tưởng để cho các con lo liệu, giành giựt, đương cự với chúng nó, nhưng dòm Thiên thơ, thì tám phần mười đã sa ngay vào chơn của Quỷ vương vày đạp, mà lại phần đông các con là bậc phẩm cao, chức trách trọng hậu.

Thầy đã nói, đãi cả môn đệ Thầy đồng một mực, bất luận bậc phẩm.

                                                (Thánh Ngôn HiệpTuyển).

BÂY GIỜ

        Giờ: Thời điểm đang nói hay đang làm.

        Bây giờ chỉ khoảng thời gian hiện đang nói, hiện đang làm, tức lúc nầy.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy chẳng biết bây giờ đây, Thầy phải bỏ Đạo, liều đọa với các con, hay là đợi cho Đạo bỏ Thầy đó các con?

Ngắm coi cái nhỏ bây giờ,

Nhớ trong cái lớn mịt mờ chiêm bao.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

Tài hay bảy bước thành thơ,

Điển xưa lưu dấu bây giờ còn ghi.

                                                (Thơ Thiên Vân).

BẤY

        1.- Bấy là từ dùng để chỉ số lượng hoặc khoảng thời gian được xác định và đã nói đến. Như: Từ bấy đến nay.

        Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu: Vậy các đạo hữu khá hết lòng lo lắng vun đắp nền đạo cho vững vàng, hiệp ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng, chớ sụt sè ôm thói mờ hồ thì đã uổng công trình cực nhọc từ bấy lâu nay, lại thêm chẳng đặng theo Thánh ý của Thầy, là bậc Chí Tôn đã hết sức nhọc nhằn cùng sanh chúng.

Thầy đã cho phép con và các môn đệ có trách nhậm xứng đáng đặng tự liệu chung lo mà làm cho hoàn toàn nền Đạo của Thầy đã vun đắp từ bấy nay.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

        2.- Bấy là bao nhiêu, dường nào, chỉ ý than tiếc, khen ngợi, lạ lùng.

        Như: Giỏi bấy, chán bấy, dường bấy, lắm bấy, đau đớn bấy, khéo vô duyên bấy.

                     Câu chọc ruột còn đau đớn bấy,

                     Huống âm dương hết thấy mặt nhau.

                                                (Kinh Thế Đạo).

                     Chán bấy những phường xu cách mạng,

                     Dựa thân công tử giữ nồi xôi.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BẤY CHẦY

        Bấy: Từ dùng để chỉ số lượng hoặc khoảng thời gian được xác định. Như: Từ bấy đến nay.

        Chầy: Muộn, chậm, lâu, dài.

        Bấy chầy là bao lâu nay, hay bấy lâu nay. Như: Ăn chay bấy chầy, hôm nay công tình đổ sông đổ biển hết.

                     Xuyên dương trăm bộ đấng nên tài,

                     Vùi lấp bấy chầy chí khí trai.

                                                (Đạo Sử).

Xem chừng coi mảnh anh nhi,

Co tay đếm tuổi bấy chầy không cha.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẤY CHỪ

        Bấy: Từ dùng để chỉ số lượng hoặc khoảng thời gian được xác định và đã nói đến. Chừ: Giờ, bây giờ.

        Bấy chừ, đồng nghĩa với chữ “Bấy giờ”, chỉ khoảng thời gian được nói đến trong quá khứ hoặc trong tương lai, có nghĩa khi ấy, lúc đó.

Quê xưa trở, cõi đọa từ,

Đoạt cơ thoát tục bấy chừ tuyệt luân.

                                                (Kinh Tận Độ).

                     Nương quyền gian dưỡng trung trừ,

                     Nát nhà hại Đạo bấy chừ mới an.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

Mảnh thân xin gởi bấy chừ,

Nương theo thuyền huệ vào bờ Tương giang.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẤY LÂU

        Bấy: Từ dùng để chỉ khoảng thời gian đã nói đến. Lâu: Mất nhiều thời giờ.

        Bấy lâu là bao lâu nay, tức chỉ khoảng thời gian dài từ lúc đã nói đến cho tới bây giờ.

        Thánh giáo Thầy có câu: Thầy vì lấy từ bi mà dìu dắt các con, nên tạm sửa chút máy huyền vi, là để cho các con lấy chí thành của Thầy un đúc bấy lâu mà đối đãi với kẻ nghịch cho đến ngày mãn công quả.

                     Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm,

                     Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.

                                                (Tán Tụng Công Đức).

                     Ta dặn về nhà lo cúng tế,

                     Tổ tông hoang phế bấy lâu rồi.

                                                (Đạo Sử).

BẤY NAY

        Bấy: Từ dùng chỉ khoảng thời gian được xác định và đã nói đến. Nay: Hiện tại, bây giờ.

        Bấy nay là chỉ khoảng thời gian từ lúc đã nói đến cho đến ngày hôm nay.

        Nói về cái chết của Chưởng Pháp Thượng Tương Thanh, Thánh giáo Thầy có dạy: Điểm Chơn thần của nó còn phải đến hầu trước Tòa Tam Giáo mà đợi lịnh phát lạc tùy theo công quả, tội tình của nó bấy nay. Ấy là Thánh ý của Thầy đã lập luật riêng cho mỗi đứa trong các con đó. Chư môn đệ cũng nên hiểu biết.

Thầy đã cho phép con và các môn đệ có trách nhậm xứng đáng đặng tự liệu chung lo mà làm cho hoàn toàn nền Đạo của Thầy đã vun đắp từ bấy nay.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BẤY NHIÊU

        Bấy: Từ dùng để chỉ số lượng đã nói đến. Nhiêu: Tiếng bao nhiêu, bấy nhiêu nói tắt.

        Bấy nhiêu chỉ số lượng đã nói đến, tức là bao nhiêu đó, ngần ấy.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn: Thầy nói cho các con hiểu rằng, muốn xứng đáng làm môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm. Hễ càng thương bao nhiêu thì Thầy lại càng hành bấy nhiêu. Như đáng làm môn đệ Thầy thì là Bạch Ngọc Kinh mới chịu rước; còn ngã thì cửa Địa Ngục lại mời. Thương thương, ghét ghét, ai thấu đáo vậy ôi!

                     Muôn đức ngàn lành không sót một

                     Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dầu cho biển cạn non mòn,

Tơ duyên khắng khít chỉ còn bấy nhiêu.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận)

                     Rộn rực tuồng đời vẫn bấy nhiêu,

                     Công danh quyền tước ngược Thiên điều.

                                                (Thượng Phẩm Giáng Bút).

BẦY

        Bầy là đàn, lũ, tức đám đông người hay động vật cùng loài sống với nhau, hoặc tập hợp tại một chỗ.

        Như: Bọn du côn kéo đến cả bầy, bầy thú dữ, chim lạc bầy còn thương cây nhớ cội.

        Thánh giáo Thầy có câu: Ôi! Thầy đã lắm nhọc nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế độ, vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải, nhưng chúng nó nhiễm luyến đã đầy mùi trần thế, tâm chí chẳng vững bền, thấy khó đã ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước.

                     Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,

                     Thấy tội nhơn xúm lại phân thây.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Bầy gà mất mẹ kiếm bơ vơ,

                     Yếu đuối biết ai để cậy nhờ.

                                                (Đạo Sử).

BẦY TRÂU ĐỐT ĐÍT

        Bầy trâu: Đàn trâu, hay nhiều con trâu. Đốt đít: Đốt lửa rồi buộc sau đuôi trâu.

        Bầy trâu đốt đít là dùng trâu, đốt cỏ khô sau đuôi cho trâu nóng xung vào trận công thành.

        Do tích Điền Đan 田 單 là người nước Tề đời Chiến Quốc. Khi nước Yên đánh chiếm hơn 70 thành của nước Tề, Điền Đan mới bày mưu dùng một ngàn con trâu cho mặc vải đỏ, vẽ rồng năm sắc, buộc sắt nhọn vào sừng trâu và bó cỏ khô tẩm dầu buộc vào đuôi trâu. Khi công thành, Điền Đan cho đốt cỏ khô sau đuôi trâu, trâu bị nóng nhảy lồng lên và chạy thẳng qua thành địch. Quân Tề theo sau lưng trâu, đột nhập vào thành địch và chém giết quân Yên vô số kể.

        Nhờ vậy, quân Tề dần dần lấy lại được 70 thành đã mất, công lao của Điền Đan rất lớn, nên được vua Tề phong làm An Bình Quân.

                     Bầy trâu đốt đít để gương xưa,

                     Nhơn lý khuyên con gắng lọc lừa.

                                                (Đạo Sử).

BẪY

        Bẫy là đồ dùng để đánh lừa loài vật cho nó mắc vào, bị giam hoặc bị hại.

        Như: Chim sa vào bẫy, gài bẫy ở rừng bắt nai, nó bị thương vì bẫy chông.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Thói vạy tà của nhiều đứa, ấy chẳng qua là những bẫy của Tòa Tam Giáo để cho các con hơ hỏng mà phải vướng chơn lúc hành trình đó.

                     Thuận đường Thiên lý vào Tiên cảnh,

                     Nhơn dục khiến sai vướng bẫy tà.

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo),

Đã mê đắm tục quen chừng,

Lạc xiêu ngoại đạo máng chưn bẫy dò.

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo).

BẪY VÔ THƯỜNG

        Bẫy: Cạm bẫy, dùng để lừa bắt thú và người. Vô thường: Không thường, tức là luôn biến đổi.

        Bẫy vô thường là cái bẫy luôn luôn thay đổi, biến hoá để người ta không biết, nên dễ mắc lừa vào bẫy. Khi bị mắc vào bẫy rồi thì không thể thoát khỏi được.

Đời mộng ảo nầy, sự còn mất như bọt nước mây bay, khá quy chánh cải tà, nắm giữ lòng thiện niệm thì một mai mới tránh khỏi bẫy vô thường của Quỷ vương đương giành xé.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BẬY

        Bậy càn, nhảm, sai trái, không kể gì lề lối, khuôn phép. Như: Nói bậy, vẽ bậy lên tường.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo nói đây cả thảy con cái của Đức Chí Tôn ngó thấy một người ngơ ngơ không đủ trí, ngu xuẩn thì bao giờ họ cũng chỉ làm bậy làm quấy, không thể gì biểu họ làm điều phải với hay cho đặng.

Người giàu sang biết lễ thì không bạo ngược, kiêu căng; người bần tiện biết lễ thì không nản chí, không làm bậy.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BẬY BẠ

        Bậy: Sai trái, không kể gì lề lối, khuôn phép.

        Bậy bạ là làm những việc quá sức sai trái, đáng nhục nhã, xấu hổ.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Địa cầu nầy nếu không mặt luật đạo đức thì sanh ra bậy bạ con người không chắc sống.

                     Mấy chị mình đạo đức phần hơn,

                     Nên chẳng kể chẳng sờn lời bậy bạ.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Coi đứa ở hay tham bậy bạ,

                     Thấy nhà quê nói giá thêm cao.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẤM

        Bấm là ấn ngón tay hoặc móng tay, hay đầu ngón chân xuống vật gì.

        Như: Bấm nút điện, bấm phiếm đàn, bấm dây chuyền, đi đường nhớ bấm chân cho khỏi trượt.

                     Bồng tang hồ hải nợ kề vai,

                     Bấm đốt thời gian kể khá dài.

                                                (Thơ Thành Đức).

BẦM GAN

        Bầm: Thâm tím và hơi đen.

        Gan: Gan con người, biểu tượng cho tinh thần dám đương đầu với nguy hiểm, dám chịu đựng.

        Bầm gan, như câu thành ngữ “Bầm gan tím ruột”, là gan ruột bị thâm tím, ý chỉ hết sức khổ sở, hoặc hết sức căm giận, phẫn uất.

                     Nát mật khó xem nhà vắng chủ,

                     Bầm gan há chịu nước không quờn.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

BẨM

        1.- Bẩm là tiếng thưa, gửi, đặt đầu câu để nói với bậc đáng kính trọng. Như: Thưa bẩm, bẩm báo.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Về phần quan lại Phụ mẫu chi dân quyền hành rất rộng rãi, một tay sanh sát, ra có kẻ bẩm, người trình, đối với dân đen là bậc thánh thần bất khả xâm phạm, nếu chẳng giữ tâm chánh, để dục vọng lôi cuốn, thì trăm họ lầm than muôn dân khổ sở.

Nghĩa là: Trong chùa có quan chức gì đâu mà ràng buộc người ta phải thưa bẩm mình là Bà Lớn.

                                        (Bát Nương Giáng Bút).

        2.- Bẩm là tự trời phú cho mà sinh ra, không dùng một mình. Như: Bệnh của nó là bệnh bẩm sinh, bẩm tính của hắn là như thế.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Còn Nữ phái nên coi tánh đức của Mẹ mà làm gương tu tỉnh, lạ gì những tánh thường tình thế gian, đàn bà ăn hiếp chồng, thất kính với chồng, bỏ con trẻ bơ vơ, chẳng qua là họ không thọ bẩm cái tình thương yêu nồng nàn của Mẹ vậy.

                     Hễ thân mình thiểu khí loạn thần,

                     Thọ khí bẩm nhâm thần con dại dột.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).


Phần 1: https://vietbao.com/a265990/tu-dien-cao-dai-mot-cong-trinh-vua-van-hoc-vua-ton-giao

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
Cuộc đua vào Tòa án Tối cao Wisconsin rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp lý và chính sách trong tiểu bang. Wisconsin là một bang chiến địa quan trọng trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tòa tối cao tiểu bang có thể đóng vai trò lớn trong các tranh chấp liên quan đến luật bầu cử, quyền tiếp cận lá phiếu và các thách thức đối với kết quả bầu cử. Cuối cùng, sự lo lắng có cơ sở của người dân cuối cùng đã được hóa giải. Số tiền “đầu tư” $20 triệu của Musk đã không thắng được sự lựa chọn của Wisconsin.
Lịch sử là sự lập lại, nhìn ngược về thời gian: Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc vào năm 211 (trước Công Nguyên) Ông đã nghe lời vị Tể Tướng Lý Tư đốt tất cả các ghi chép của Sử Gia không thuộc nước Tần, kể cả Kinh Thi. Bất cứ ai thảo luận về Kinh Thi và Kinh Thư sẽ bị xử tử. Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, vụ đốt sách chôn Nho được gọi là “Phần thư khanh nho”, bao gồm việc đốt sách và chôn sống hơn 460 học giả. (1) Năm 1958, Mao Trạch Đông đã liên hệ bản thân ông với Tần Thuỷ Hoàng. Khi ông ta chôn sống 460 học giả ông nói trong một bài phát biểu với các đồng chí của mình: “Các bạn (những nhà trí thức) căm ghét chúng tôi, coi chúng tôi là những Tần Thuỷ Hoàng. Các bạn nhầm rồi. Chúng tôi thậm chí còn vượt Tần Thuỷ Hoàng một trăm lần”.(2) Năm 1975 khi CS miền Bắc, chiếm Việt Nam Cộng Hòa, phong trào đốt sách cũng xảy ra ngay tại miền Nam, Việt Nam. Hàng trăm cuốn sách được người Cộng Hòa mang đi giấu hay mang ra nước ngoài và hàng ngàn cuốn sách bị đố
Hai tháng đã trôi qua. Trên những diễn đàn mạng xã hội và cả trong những cuộc đối thoại đời thường, rất nhiều người thổ lộ về một thói quen vừa xuất hiện: đếm xem còn bao nhiêu ngày nữa kết thúc nhiệm kỳ bốn năm của chính quyền hiện tại. “Đếm thời gian trôi” vốn không phải là một thói quen tích cực trong đời sống. Nó phản chiếu tâm trạng chán nản, buông xuôi, thậm chí là sợ hãi. Hàng loạt câu hỏi “Chúng ta phải làm gì?”; “Rồi chuyện gì nữa?”; “Chúng ta đang sống ở thời đại nào?”… Trong đó, câu hỏi lớn nhất, và biểu lộ sự phẫn nộ của người dân nhất, đó là: “Đảng Dân Chủ đang làm gì?”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.