Hôm nay,  

Chúng Ta Có Cần Biết Ai Là Kẻ Xâm Lấn Ở Biển Đông?

24/06/201500:00:00(Xem: 5810)

Tác giả: Tuấn Hà
Người dịch: Trần Văn Minh

​TQ đòi chủ quyền ở Biển Đông

Tôi vừa xem qua những bài viết gần đây của ông Greg Austin trên tờ The Diplomat về những diễn biến gần đây ở Biển Đông với đôi mắt đầy ngạc nhiên. Trong bài đầu, ông Austin bàn luận sơ qua về tình hình Biển Đông và trích dẫn sai một nguồn tin bên ngoài để ám chỉ rằng Việt Nam là kẻ xâm lấn lớn nhất trong khu vực này. Trong bài thứ hai, ông đã cố gắng làm mờ nhạt vấn đề bằng cách biện giải rằng câu hỏi ai đúng ai sai ở Biển Đông không quan trọng bằng việc tìm kiếm một giải pháp chính trị để giải quyết hòa bình các tranh chấp.

Theo sự hiểu biết chung trong quan hệ quốc tế, cụm từ kẻ xâm lấn được sử dụng để mô tả một kẻ tấn công hay cưỡng ép người khác để đạt được các mục tiêu chính trị. Vì vậy, bằng cách gọi một nước là kẻ xâm lấn thì điều quan trọng là phải đi tìm nạn nhân của hắn. Việt Nam chưa bao giờ bị bất kỳ một nước ASEAN nào có yêu sách chủ quyền quy lỗi do hoạt động phòng thủ ở Biển Đông. Trong những năm gần đây, quân đội Việt Nam và Philippines đồn trú ở quần đảo Trường Sa thậm chí đã tổ chức các trận tranh tài thể thao thường xuyên và chia sẻ thức uống qua lại, một hành động chỉ có thể có giữa những người bạn thực sự, không phải giữa một kẻ xâm lấn với nạn nhân của hắn.

Gọi Trung Quốc là nạn nhân của Việt Nam ở Biển Đông là người không có đầu óc. Trung Quốc có thể có lý để tự cho mình là một nạn nhân của các nước phương Tây trong thời kỳ thuộc địa (và Việt Nam “xứng tên” hơn Trung Quốc rất nhiều trong ý nghĩa đó), nhưng thật vô lý khi cho rằng Trung Quốc là nạn nhân của sự xâm lấn của Việt Nam ở Biển Đông. Bắc Kinh đã xem Biển Đông là một trong những lợi ích cốt lõi của họ. Dựa vào khả năng đầy đủ và áp đảo, Bắc Kinh đã, một cách nhanh chóng và lấn át, mở rộng sự hiện diện thực sự và quyền kiểm soát trong khu vực. Trong những năm qua, Bắc Kinh thiết lập các đơn vị hành chánh mới trong khu vực, sử dụng tàu thuyền của nhà chức trách để xua đuổi tàu đánh cá của ngư dân Đông Nam Á khỏi ngư trường truyền thống của họ ở Biển Đông, và gây áp lực lên các công ty dầu khí nước ngoài, buộc họ phải rút lui khỏi hợp đồng với các đối tác Đông Nam Á ở Biển Đông.

Về mặt địa lý, Bắc Kinh bằng một cách mơ hồ nhưng mạnh mẽ, đã tuyên bố chủ quyền hầu hết Biển Đông kể từ khi họ đệ trình tuyên bố đường lưỡi bò [lên Liên Hiệp Quốc] vào năm 2009. Họ mở rộng kiểm soát về phía đông của Biển Đông bằng cách chiếm bãi cạn Scarborough từ Philippines năm 2012. Trong phần phía tây của Biển Đông, Trung Quốc quấy nhiễu các tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam năm 2011, và với sự bảo vệ của một hạm đội tàu gồm trên 100 chiếc, bao gồm một số tàu chiến vào năm 2014, đã lắp đặt giàn khoan dầu khổng lồ CNOOC-981 sâu bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông. Từ năm 2014, Trung Quốc đã nhanh chóng mở rộng về phía nam bằng cách cải tạo đất với quy mô lớn trên bảy cấu trúc do họ kiểm soát ở quần đảo Trường Sa, tạo ra những hòn đảo nhân tạo khổng lồ có khả năng lưu trữ vũ khí hạng nặng, như chiến đấu cơ lớn và tàu chiến hạng nặng.

Hành động của Trung Quốc đã bị các nước Đông Nam Á phản đối mạnh mẽ. Khi các cuộc đối thoại chính trị thất bại, Philippines đã phải sử dụng giải pháp hòa bình cuối cùng là đệ trình vấn đề tranh chấp với Trung Quốc lên tòa án quốc tế. Những chứng cứ này giúp cho việc đánh giá ai thực sự là kẻ xâm lấn ở Biển Đông.

Về mặt kỹ thuật, ông Austin đánh lạc hướng độc giả bằng cách viết rằng Việt Nam đã mở rộng kiểm soát ở quần đảo Trường Sa từ 24 thực thể trong 1996 lên tới 48 thực thể trong năm 2015. Viết cho chính xác là “Việt Nam có 48 tiền đồn” trong khu vực này. Số lượng các thực thể do Việt Nam chiếm đóng vẫn như cũ, là 21, và Việt Nam chỉ dựng lên vài tiền đồn mới và rất nhỏ trên các thực thể đã do Việt Nam kiểm soát để giám sát khu vực tốt hơn. So sánh các cấu trúc nhỏ xíu như vậy với việc xây dựng các hòn đảo nhân tạo lớn như các thị trấn nhỏ, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường biển ở Biển Đông, thì rõ ràng là không công bằng.

Sau cùng, ông Austin đã đúng khi nói rằng điều quan trọng là tìm kiếm một giải pháp để giải quyết các tranh chấp hòa bình. Nhưng nói ra ai đúng ai sai cũng không kém phần quan trọng, vì điều này sẽ cho chúng ta thấy những gì cần được khuyến khích và những gì cần phải loại bỏ ngay lập tức. Và đối với một giải pháp chính trị mang tính chất bao quát về các tranh chấp ở Biển Đông – như ông đề nghị – để được vững bền, tất cả các bên liên quan, gồm cả các quốc gia không có yêu sách, phải tham gia. Trong ý nghĩa đó, Mỹ và Nhật Bản trong vai trò cung cấp thông tin, tạo điều kiện để xây dựng lòng tin, và các nước quan tâm nên được hoan nghênh.

* Tuấn Hà (PhD) là một nhà nghiên cứu tại Học viện Ngoại giao Việt Nam. Chủ đề nghiên cứu của ông là quan hệ quốc tế của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Luận án tiến sĩ của ông Tuấn là về chính sách Biển Đông của Trung Quốc.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.