Hôm nay,  

Sinh Y Học Trong Tuần:Ung Thư Máu, Khó Thở...

17/09/201100:00:00(Xem: 8258)

Sinh Y Học Trong Tuần:Ung Thư Máu, Khó Thở...

Bác sĩ Trần Mạnh Ngô

Những yếu tố tăng trưởng tế bào ung thư máu. Tương tác giữa Choline kinase alpha, epidermal growth factor receptor và c-Src trong việc tăng trưởng tế bào ung thư máu Bs Yataka Shima và Bs Issay Kitabayashi vừa phổ biến kết quả tham khảo đăng trong báo International J of Hematology, 94: 134, 2011.

Theo các nhà nghiên cứu này thì thay đổi vi trí một vài nhiễm sắc thể đặc biệt và đột biến có liên hệ tới ung thư máu bạch huyết cấp tính (acute myeloblastic leukemia, AML). Một số di thể như AML1, C/EBPa, RARa, MOZ, p300/CBP, and MLL có liên hệ quan trọng tới việc điều chỉnh ung thư máu hematopoiesis. Kết quả gây nên những phản ứng fusion hay đột biến những chất bạch đản đã làm thay đổi phiên mã di thể, làm rối loạn hiện tượng sinh sản máu Các tác giả nghiên cứu những yếu tố phiên mã và hiện tượng cộng hoạt hoá đóng vai trò quan trọng trong việc sinh sản hồng huyết cầu và bạch huyết cầu. Choline kinase là một loại men xúc tác choline theo đường hoá học phosphatidylcholine (PC) biosynthesis. Epidermal growth factor receptor (EGFR; ErbB-1; HER1 trong cơ thể con người) là một thụ thể nằm ngoài màng tế bào.

Ung thư bạch cầu cấp tính (Acute myeloblastic leukemia, AML) thường thấy nơi bệnh nhân tuổi 60 và tỉ lệ tăng cao khi lớn tuổi hơn. Những triệu chứng ngắn thường thấy như mệt mỏi, nóng, và chảy máu. Giảm tế bào máu. Hơn 20% tế bào mầm thấy trong tủy xương. Khoảng 90% bệnh nhân có tế bào mầm trong máu. Dấu ấn sinh học Midreprohormone adrenomedullin (MR-proADM) thử nghiệm chứng khó thở.

Yếu tố sinh học bệnh nhân khó thở. Chuyên gia Dorothy Caputo vừa phổ biến trong báo J. Amer College of Cardiology, 58: 1057, 2011, ngày 30 tháng Tám, 2011, nói về vài trò của dấu ấn sinh học MR-proADM dùng thử nghiệm tiên đoán chứng khó thở cho bệnh nhân. Có thể coi đây là một dấu ấn sinh học hiệu nghiệm trong việc tiên đoán tử vong bệnh nhân bị chứng nghẹt thở cấp tinh.

Biomarker MR-proADM dùng để thử nghiệm cho bệnh nhân bị khó thở mà 1/3 là do bệnh suy tim cấp tính. Ngoài ra, chứng khó thở có thể do bệnh nghẹt thở kinh niên (COPD), suyễn (Asthma), viêm sưng phổi (Pneumonia), và tim đập thất nhịp.

Trước đây các chuyên gia đã từng thử nghiệm Adrenomedullin (ADM) chuẩn đoán bệnh nghẹt thở dưạ theo đặc tính của ADM là một loại peptide có thể làm nở mạch máu và hạ huyết áp xuống thấp. Tuy nhiên đã gặp khó khăn khi dùng chất Adrenomedullin này trong việc chuẩn đoán bệnh khó thở, vì Adrenomedullin không có tính chất sinh học nên khó thử nghiệm áp dụng trong y khoa lâm sàng.

Bởi vậy sau này các chuyên gia đã để ý tới MR-ProAMD vì chất này có đặc tính như một loại kích thích tố (Hormone). Ts Nils G. Morgenthaler và các đồng nghiệp đã thực hiện được việc thử nghiệm đo lường chất Midregional pro-ADM (MR-proADM) và kết quả đã phổ biến trong báo Endocrinology and Metabolism, 51: 1823, 2005.

Lượng thuốc cao Celexa gây nguy cơ tim đập thất nhịp. Ngày 8/24/2011, FDA thông tin vấn đề an toàn của Thuốc Celexa (Citalopram hydromide) khi dùng liều lượng cao thuốc này có thể làm thay đổi nhịp tim. Theo FDA thì không nên dùng Celexa liều lượng cao hơn 4mg một ngày vì thuốc này có thể làm thay đổi tình trạng điện trong tim. Liều cao thuốc Celexa làm thay đổi dòng điện trong tim, kéo dài QT trong điện tâm đồ EKG đưa tới tim đập thất nhịp, rối loạn nhịp tim, do đó có thể nguy hiểm đến tính mang. Thuốc Celexa (Citalopram hydromide) là loại thuốc chữa bệnh trầm cảm gọi là Selective reuptake inhibitors (SSRIs). Citalopram làm cho QT kéo dài. Bệnh nhân không được dùng Citalopram quá liều lượng 40 mg một ngày. Bởi vậy bệnh nhân có tật bẩm sinh ST kéo dài cũng không dùng Citalopram. Trường hợp bệnh nhân suy tim, tim đập chậm thất nhịp hay có chất kali thấp trong máu (hypokalemia) hay chất magnéium thấp trong máu (hypomagnesemia) vì thuốc Citalopram trong những trường hợp bệnh kể trên dễ sinh chứng Torsade de Pointes.

Theo FDA thì cả bác sĩ lẫn bệnh nhân đều phải vào FDA đọc thêm để tìm hiểu rõ ràng trước khi dùng thuốc này. Cả bệnh nhân lẫn bác sĩ đều phải tường trình biến chứng với FDA khi dùng thuốc này. www.fda.gov/Med Watch/report. htm.

Azithromycine và Bệnh Nghẹt Phổi Kinh Niên (COPD). Bs Richard K Albert và các cộng sự viên vừa phổ biến trong báo New Eng J. Med ngày 25 tháng 8, 2011, cho biết thuốc Azithromycine có khả năng ngừa bệnh Nghẹt Phổi Kinh Niên (COPD) đỡ bị tái phát thường xuyên hơn. Thử nghiệm cho một số bệnh nhân bị nghẹt phổi kinh niên uống mỗi ngày một viên Azithromycine, thêm vào những thuốc khác cho bệnh nhân uống trị bệnh nghẹt thở kinh niên, thì thấy tình trạng tái phát bệnh COPD thuyên giảm. Phẩm chất đời sống bệnh nhân tốt hơn. Tuy có một số nhỏ bênh nhân bị chứng lãng tai. Các tác giả e ngại vấn đề quen thuốc trụ sinh. Ngoài ra cũng cần phải lưu ý những công phạt khi dùng thuốc Azithromycine. Trong báo Int J Chron Obstruct Pulm Dis, Dec 2008, Bs Aaron P Milstone cho biết bình thường điều trị bệnh COPD bao gồm việc giữ vệ sinh cho phổi, uống thuốc nở cuống phổi, và uống thuốc trụ sinh. Trong những năm gần đây thời gian dùng thuốc trụ sinh để chữa COPD càng ngày càng ngắn hơn. Bs Milston đã nghiên cứu dùng thuốc Azithromycine chữa COPD trong 3 thời gian khác khác nhau: 1 ngày, 3 ngày và 5 ngày. Theo Bs Milstone thì tăng lượng thuốc trụ sinh trong thời gian điều trị ngắn hạn có hy vọng giảm nguy cơ kháng thuốc trụ sinh. Nhưng vẫn cần thêm nhiều nghiên cứu để làm sáng tỏ vấn đề.

Bác sĩ Trần Mạnh Ngô,

(Xin mời ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com, Một Trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.