Nội Thương Hoa Kỳ
Nguyễn Xuân Nghĩa
Trước trận chiến ngoại thương, ngoại tệ và ngoại giao...
Hoa Kỳ đang gặp nhiều vấn đề từ trong ra ngoài và đến nay mới chỉ nhìn vào trong vì bị nội thương trầm trọng. Sau cuộc bẩu cử tháng tới, tình hình có thể sẽ đổi khác, liên tục và hỗn loạn, cho đến khi nước Mỹ có lãnh đạo mới sau năm 2012... Hỗn loạn nhất sẽ là trận chiến lưỡng diện kinh tế và ngoại giao. Đó là ngoại thương.
Bài viết khá dài này sẽ trình bày bối cảnh của các vấn đề ấy...
Trong vụ Tổng khủng hoảng thời 1929-1933, phản ứng bảo hộ mậu dịch từ phía Hoa Kỳ, với đạo luật Smoot-Hawley ban hành giữa năm 1930, đã không gây ra khủng hoảng. Nhưng nó có góp phần kéo dài sự lầm than và làm lan rộng ra nhiều nơi. Thời ấy, hốt hoảng vì tình trạng kinh tế suy sụp, Quốc hội Mỹ muốn bảo vệ quyền lợi của công nhân và doanh nghiệp nên đã nâng hàng rào quan thuế nhằm chặn hàng nhập cảng. Đạo luật dẫn đến biện pháp trả đũa từ các quốc gia khác, với kết quả làm mọi người đều nghèo đi, khủng hoảng kéo dài lâu hơn.
Và thực tế thì chỉ chấm dứt... nhờ Đệ nhị Thế chiến, năm 1939...
Ngày nay, 80 năm sau, bóng ma của nạn bảo hộ mậu dịch - protectionism - lại về ám ảnh thế giới khi kinh tế các nước lại buôn bán với nhau nhiều hơn gấp bội, và lệ thuộc nhau tới mức độ chưa từng thấy. Người ta lo sợ một trận chiến ngoại thương có thể bùng nổ với dấu hiệu manh nha là nguy cơ của một trận chiến hối đoái. Tại kỳ họp hàng năm vừa qua của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, lãnh đạo tài chánh và ngân hàng trung ương của các nước chưa thể đạt thỏa thuận về việc giải trừ nguy cơ đó nên lại đẩy vấn đề vào nghị trình của Thượng đỉnh G-20, sẽ họp tại thủ đô Hán Thành của Nam Hàn vào hai ngày 11 và 12 Tháng 11 tới đây.
Khi ấy, lãnh đạo Liên hiệp Âu Châu và 19 quốc gia thành viên của nhóm G-20 sẽ thảo luận về các vấn đề gì trong hồ sơ đó"
***
1. TÁI LẬP QUÂN BÌNH NGOẠI THƯƠNG
Trước hết, xin có vài lời về định nghĩa.
Thế giới có khối kinh tế công nghiệp hóa, của Hoa Kỳ, Âu Châu và Nhật Bản. Đây là các nước "giàu" nếu tính theo lợi tức trung bình một đầu người, nhưng... nghèo đi vì mắc nợ quá nhiều và có tốc độ tăng trưởng rất thấp của trạng thái hậu công nghiệp. Ở bên kia là các nước "tân hưng", đang phát triển, chủ yếu gồm khu vực Đông Á (ngoài Nhật nhưng có Trung Quốc) và một số quốc gia khác như Ấn Độ, Brazil hay Mexico....
Vụ Tổng suy trầm 2008-2009 ("Great Recession") có phơi bày một nghịch lý. Đa số các nước kỹ nghệ hóa đã nhập cảng quá nhiều, bị nhập siêu vì nhập nhiều hơn xuất. Các nước tân hưng thì đạt xuất siêu vì tích cực xuất cảng, nhiều khi bằng mọi giá, kể cả cái giá là giữ hối suất đồng bạc rất thấp để chiếm lợi thế cạnh tranh.
Chúng ta có truyện ngụ ngôn của con ve sầu giàu có nhởn nhơ, tiêu thụ nhiều mà tiết kiệm ít và vay mượn lung tung để kinh doanh bất cẩn rồi bị khủng hoảng. Trong khi bầy kiến "tân hưng" lại thắt lưng buộc bụng, ráo riết xuất cảng lấy tiền về cho con ve sầu vay tiếp để tiếp tục nhập cảng.
Nạn Tổng suy trầm vừa qua khiến cho trật tự quái đản ấy bị lật.
Vì thế mới có nhu cầu "tái lập quân bình toàn cầu": Đó là các nước "tân hưng" cần tiêu thụ nhiều hơn để mở rộng thị trường nội địa và ít lệ thuộc hơn vào xuất cảng. Các nước công nghiệp hóa hay đã phát triển (khối Âu-Mỹ-Nhật) cần tiết kiệm nhiều hơn, nhập cảng ít đi, xuất cảng nhiều hơn và phải trả nợ - giảm bội chi và công trái... Việc điều chỉnh như vậy có thể là chánh sách tự nguyện - rất khó - của từng quốc gia. Lý tưởng là qua một sự phối hợp quốc tế, hay toàn cầu.
Nhưng lý tưởng lại càng khó hơn khi các nền kinh tế ve sầu đạt tốc độ tăng trưởng quá thấp và còn có nguy cơ suy trầm lần nữa, đụng đáy hai lần, khi các nền kinh tế tân hưng của bầy kiến lại có tốc độ tăng trưởng cao hơn và vẫn còn lệ thuộc vào xuất cảng để đẩy mạnh guồng máy sản xuất và đẩy lui nguy cơ thất nghiệp. Trong giai đoạn chuyển tiếp, ai cũng có thể công nhận nhu cầu tái lập quân bình cho lành mạnh hơn, như thi hành lại là chuyện khác.
Và mâu thuẫn có thể xảy ra, thực tế thì đã xảy ra.
Vấn đề này sẽ vào nghị trình thảo luận của nhóm G-20 vào tháng tới. Nhưng không ai trông đợi kết quả ngoạn mục và lập tức. Ngược lại, người ta nên e sợ mâu thuẫn sẽ càng gia tăng. Mâu thuẫn đầu tiên là vấn đề hối suất và trận chiến hối đoái.
***
2. TRẬN CHIẾN HỐI ĐOÁI
Hồ sơ này còn rắc rối khó hiểu hơn nữa.
Về bối cảnh thì theo gương Nhật Bản, các nước tân hưng Đông Á đầu tiên như Đài Loan và Nam Hàn, rồi các nước Đông Nam Á, khác đã áp dụng chiến lược phát triển dựa vào xuất cảng mà bất kể lời lỗ, với hối suất thấp và ngân hàng vay mượn nhiều. Hậu quả là bong bóng đầu tư đã bể tại Nhật từ năm 1990 và khủng hoảng bùng nổ tại Đông Á vào năm 1997 rồi lan rộng khắp nơi, kể cả Liên bang Nga và Brazil, lẫn Hoa Kỳ.
Sau vụ khủng hoảng 1997-1998 và nạn suy trầm 1990, các nước Đông Á rút tỉa bài học. Họ thắt lưng buộc bụng để trả nợ và tích lũy một khối dự trữ ngoại tệ an toàn hơn vì dồi dào hơn. Bài toán ấy cũng là bài toán ngày nay của nước Mỹ, nhưng lại giải quyết theo kiểu khác, kiểu Barack Obama mà ta sẽ tìm hiểu sau.
Vì chưa hội nhập toàn cầu và chưa gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, Trung Quốc không trực tiếp bị vụ khủng hoảng năm 1997-1998 và tiếp tục chiến lược Đông Á: lấy xuất cảng làm đầu máy tăng trưởng với hối suất đồng Nguyên (Yuan, Nhân dân tệ, Renminbi) rất thấp. Nhưng cũng khác với các nước tân hưng Đông Á, dù sao cũng dân chủ và tự do hơn, Trung Quốc còn giữ chế độ kiểm soát hối đoái khá lâu.
Cụ thể là 1) kiểm soát việc xuất nhập tư bản đầu tư, 2) ràng giá đồng Nguyên vào Mỹ kim theo tỷ giá rất thấp do nhà nước ấn định để chiếm lợi thế xuất cảng, 3) độc quyền thu dụng ngoại tệ về cho nhà nước quản lý, 4) bơm ra đối giá nội tệ của nguồn thu ngoại tệ lớn lao ấy theo tỷ lệ thấp, nôm na là đông lạnh một phần của khối tiền tệ lưu hành bằng cách phát hành công khố phiếu và nâng mức dự trữ pháp định của các ngân hàng.
Mục tiêu là để đạt xuất siêu và đem về cho nhà nước một khối dự trữ ngoại tệ vĩ đại. Tuần qua thì đã tương đương với 2.600 tỷ đô la, hơn 30% tổng số dự trữ của các nước trên thế giới. Tức là trong tình trạng thất quân bình toàn cầu, có Trung Quốc dẫn đầu và đang trở thành một đại gia có khả năng khuynh đảo thế giới.
Nhưng hậu quả của chiến lược đó là bất ổn xã hội vì 1) người dân ít được hưởng lợi ích của lao động; 2) các doanh nghiệp nội địa có mức lời quá thấp và thường xuyên bị đe dọa phá sản nếu không được nâng đỡ bằng hối suất đồng Nguyên; 3) các tỉnh bị khóa trong lục địa và không tham gia vào thị trường hướng ngoại bị tụt hậu; khiến 4) mâu thuẫn bùng nổ giữa trung ương và các địa phương và giữa các đảng bộ địa phương với nhau.
Nhằm giải tỏa những mâu thuẫn này, hơn là vì áp lực của Hoa Kỳ năm 2005, Bắc Kinh đã điều chỉnh hối suất đồng bạc một cách tiệm tiến. Trong ba năm từ Tháng Bảy năm 2005 đến Tháng Bảy năm 2008, thì tăng giá được khoảng 20%. Nhưng nạn suy trầm rồi khủng hoảng tài chánh năm 2008 khiến Bắc Kinh chột dạ và lại neo giá đồng bạc với tỷ lệ thấp. Khi bị các nước than phiền vì họ cần xuất cảng để ra khỏi suy trầm, Bắc Kinh cho nhích giá thật chậm, từ ngày 19 Tháng Sáu đến cuối tuần qua thì chỉ tăng được chừng 3%.
Trở lại phía Hoa Kỳ, con ve sầu đầu đàn của các nước công nghiệp hóa.
Hoa Kỳ tiết kiệm ít, tiêu thụ nhiều (tới 94% lợi tức và 71% tổng sản lượng) và bị nhập siêu nặng trong khi kinh tế suy trầm, thất nghiệp tăng. Chính quyền Obama không ưu tiên giải quyết vấn đề kinh tế ấy mà lại muốn cải tạo xã hội và cùng Quốc hội dồn sức cho các đạo luật tốn kém, được tài trợ bằng bội chi ngân sách và công trái - nhà nước đi vay. Trong lịch sử, và trừ Thế chiến II, chưa khi nào Hoa Kỳ bị bội chi ngân sách nặng như vậy và công trái của Mỹ đã lớn hơn tổng số công trái của nước Mỹ từ thời lập quốc.
Nước Mỹ bị nội thương vì vừa lâm chiến, vửa mắc nợ và lãnh đạo thì đòi làm cách mạng xã hội!
Hậu quả về đối ngoại là uy tín sa sút, đồng minh không tin và kẻ thù không sợ. Về ngoại tệ là Mỹ kim sụt giá, vàng bốc lên trời. Nhưng vì đồng Nguyên của Trung Quốc lại neo giá vào Mỹ kim, tiền Mỹ chìm tới đâu thì tiền Tầu xuống tới đó. "Xuống" là khi ta so với các đồng bạc khác, của Nhật Bản, Nam Hàn, Âu Châu hay Brazil, Ấn Độ....
Các quốc gia này bị chết kẹt vì cả hai đồng bạc Hoa Kỳ và Trung Quốc đều giảm giá làm nội tệ của họ lên giá và hàng hóa khó bán hơn.
Tháng Chín vừa qua, một số nước Đông Á, rồi cả Nhật Bản và Brazil gần đây, phải can thiệp vào thị trường hối đoái và tín dụng để đồng bạc khỏi tăng giá. Việc can thiệp đồng loạt - dù không có phối hợp giữa các ngân hàng trung ương với nhau - khiến người ta lo ngại một trận chiến hối đoái giữa các nước. Đó là khi xứ nào cũng phải trả đũa, và mò xuống đáy tìm mọi cách hạ hối suất đồng bạc để chiếm lợi thế xuất cảng hoặc để không bị thiệt hại về ngoại thương.
Vấn đề đã được các nước nêu ra cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF trong hai ngày họp 9-10 Tháng Mười ở Washington. Nhưng không có kết quả nên lại được đẩy qua Thượng đỉnh G-20... Người ta e rằng nếu không được giải quyết, trận chiến hối đoái sẽ dẫn tới trận chiến ngoại thương.
Và phản ứng bảo hộ mậu dịch sẽ thắng lớn.
***
3. BÓNG MA BẢO HỘ MẬU DỊCH
Khoa kinh tế học có học của... Việt Nam một thành ngữ.
"Đèn nhà nào nhà ấy rạng, mạng người nào người ấy giữ"! Là khi mọi quốc gia đều có phản ứng "sống chết mặc bay". Xứ nào cũng tìm mọi cách bán tối đa mà mua tối thiểu rồi mặc cho thị trường mua bán cứ co cụm dần vì kết quả tổng hợp là giảm dần việc mua bán.
Tổng khủng hoảng thời 1929-1933 đã kéo dài oan uổng một phần cũng vì phản ứng tai hại đó, khi mà Hoa Kỳ dù sao chỉ nhập cảng một số hàng hóa trị giá bằng 5% tổng sản lượng. Nghĩa là còn thấp vì chỉ bằng một phần ba của ngày nay (15%). Ngày nay, tai họa đó mà tái diễn thì hậu quả sẽ khôn lường trong một thế giới đã toàn cầu hóa.
Mà tai họa đó có xác suất khá cao. Ở ngay Hoa Kỳ.