Hôm nay,  

Thuốc Đồng Dạng Là Gì?

08/01/201000:00:00(Xem: 7488)

Thuốc Đồng Dạng Là Gì"

Dược sĩ Nguyễn Ngọc Lan.

 

 

 

 

 

 

 

Thuốc nguyên gốc (trái) và thuốc đồng dạng (phải).

Dược sĩ Nguyễn Ngọc Lan
Đối với đại đa số người dân sống tại Canada, thuốc nguyên gốc (origine, brand name drug) là thuốc tốt đáng tin cậy hơn là thuốc đồng dạng (generic drug).
Vậy đâu là sự thật"
Ngày nay, không riêng gì Canada mà cả thế giới, thuốc đồng dạng générique có khuynh hướng dần dần thay thế các thuốc nguyên gốc origine tương ứng của nó. Lý do duy nhất là thuốc đồng dạng rẻ hơn rất nhiều so với thuốc nguyên gốc.
Thuốc đồng dạng được sử dụng khắp mọi nơi, từ trong bệnh viện cho đến các dược phòng bán lẻ. Lẽ dĩ nhiên là chánh phủ và các công ty bảo hiểm chuyên trách về sức khỏe hết sức hoan nghênh và ca ngợi thuốc đồng dạng.
Mặc dù giá rẻ, nhưng trong thực tế thuốc đồng dạng cũng bị dân chúng hoài nghi về tính an toàn và sự công hiệu của nó.
Thật vậy, nhiều cuộc thăm dò đều cho biết bệnh nhân vẫn chuộng và vẫn tin tưởng thuốc nguyên gốc hơn là thuốc đồng dạng.
Thông thường thì chính dược sĩ phải cắt nghĩa hơn thiệt và đề nghị với bệnh nhân nên xài thuốc đồng dạng với lý do, là sự hiệu nghiệm của thuốc générique cũng y chang như của thuốc origine, là giá cả của thuốc générique rẻ, là tiết kiệm được tiền, vân vân và vân vân…
Đối với bảo hiểm sức khỏe của nhà nước, hầu như bệnh nhân được đưa cho xài thuốc générique. Trừ trường hợp nếu có chữ «pas de substitution» của bác sĩ trên toa thuốc, người bệnh được đưa cho thuốc origine, nhưng có phải trả thêm phần tiền sai biệt (giữa thuốc nguyên gốc và thuốc đồng dạng) hay không thì tùy theo loại thuốc và cũng tùy theo hoàn cảnh bảo hiểm của người bệnh.
(Nói rõ là tại Québec, chánh phủ trả tiền thuốc cho người dân thông qua chương trình bảo hiểm sức khỏe của nhà nước).
Đối với bảo hiểm sức khỏe của tư nhân, khách hàng bệnh nhân có quyền đòi hỏi thuốc origine nếu muốn, mà không cần phải có chữ «pas de susbtitution» của bác sĩ trên toa thuốc.
Thuốc đồng dạng générique và thuốc nguyên gốc origine khác nhau ra sao"
Thuốc générique cũng chứa những chất thuốc tương tợ dùng để sản xuất thuốc origine.
Thuốc đồng dạng có thể chứa những chất gọi là ingredients non médicinaux khác với thuốc nguyên gốc. Chính những chất nầy làm cho thuốc đồng dạng có thể hơi khác thuốc nguyên gốc đôi chút về màu sắc và về hình dáng …
Ngoài ra, những đặc tính khác như liều lượng, phẩm chất, tính an toàn, v.v…của thuốc générique cũng giống y như thuốc origine.
Điểm khác biệt nổi bật nhứt là thuốc đồng dạng giá rẻ hơn thuốc nguyên gốc lối 45%.
Thuốc générique thường được sản xuất bởi những nhà bào chế lớn chuyên về générique, thí dụ như Labo Apotex, Novopharm, Genpharm, Ratiopharm…
Tuy nhiên, một thăm dò năm 2004 cho biết, có 27% thuốc générique bán tại Canada có thể được gọi là đồng dạng giả pseudogénérique thì đúng hơn, vì chúng cũng được sản xuất ra từ...những nhà bào chế thuốc origine!
 Cho dù được sản xuất bởi nhà bào chế nào đi nữa, các thuốc do bác sĩ kê toa médicaments d’ordonnance tại Canada đều phải thông qua các thủ tục xét nghiệm, và sự cho phép bán của Santé Canada.
 Tại sao giá bán của thuốc nguyên gốc quá mắc"
 Lý do được các nhà bào chế thuốc origine đưa ra là: công trình khảo cứu quá tốn kém.
 Cần phải bán giá cao để có thể tung ra thị trường thêm những thuốc mới. Họ lờ đi chuyện làm giàu cho mau.
 Được biết là chánh phủ liên bang Canada cho phép brevet của một món thuốc được bảo vệ trong 20 năm trước khi thuốc générique tương ứng được cho phép sản xuất!
 Santé Canada xét nghiệm thuốc đồng dạng bằng cách nào"
 Trước hết là đánh giá các hoạt chất sử dụng để làm ra thuốc générique.
Nhà bào chế phải kiểm tra mỗi lô thuốc khi nó đuợc sản xuất ra để chứng minh sự hiệu nghiệm của món thuốc, cũng như sự không nguy hiểm cho người sử dụng.
Mỗi khi những nguyên liệu không có tính trị liệu (ingrédients non médicinaux) được sử dụng để cho thuốc générique có màu sắc hay hình thức đặc biệt khác với thuốc origine, nhà bào chế phải trưng bày ra những khảo cứu và bằng chứng khoa học xác đáng nói lên tính chất an toàn của những nguyên liệu đã được sử dụng.
Nhà bào chế thuốc générique có hai cách thí nghiệm:
-1*/ Thí nghiệm essais cliniques (thí nghiệm lâm sàng) bằng cách lập lại những thí nghiệm đã được áp dụng cho thuốc origine trước kia.


-2*/ Thí nghiệm bioéquivalence để chứng minh là thuốc générique cũng có tính năng trị liệu không mấy gì khác so với thuốc origine tương ứng.
Phần lớn các nhà bào chế thuốc đồng dạng générique đều chọn cách thứ hai (thí nghiệm bioéquivalence) với lý do là sự hiệu nghiệm, và tính an toàn của thuốc nguyên gốc origine đã được chứng minh từ trước rồi.
Một vài thí dụ về thuốc nguyên gốc và thuốc đồng dạng tại Canada
Smart substitution (thay thế thuốc một cách khôn ngoan)
Comparison of prices of four brand-name and generic drugs approved for sale in Canada a,  b
Use (form)
Brand-name (strength)
Brand-name price ($) per single dose c
Generic
Generic Price ($) per single dose c
Antibiotic (tablet)
 Zithromax (250 mg)
 4.63
 azithromycin
 3.11
Cholesterol-lowering (tablet)
 Zocor (80 mg)
 2.24
 simvastatin
 1.39
 Heartburn (tablet)
 Zantac (150 mg)
 1.08
 ranitidine
 0.40
Ulcers (tablet)
 Losec (20 mg)
 2.20
 omeprazole
 1.25
a. Được cho phép bán tại Canada.
b. Những thuốc trên đây được chọn ra trong số 200 loại thường được kê toa tại Canada, năm 2005-2006.
c. Những giá thuốc trên đây do Québec ấn định vào tháng 4/2007, nhưng cũng không mấy chênh lệch cho mấy với các tỉnh bang khác. Đây là giá sỉ, chưa tính tiền honoraire của người dược sĩ.
Mặc dù tình hình rõ rệt như thế, nhưng một số người vẫn tỏ ra không mấy thiện càm đối với thuốc générique. Nhưng có thể trong quá khứ họ đã uống thuốc générique rồi mà họ không biết đó thôi!
Thuốc générique chiếm lối 43% trong tổng số thuốc được bác sĩ kê toa trong năm 2005.
Tuy nhiên, đôi khi không thể tìm thấy một thứ thuốc générique để có thể thay thế cho một loại thuốc nguyên gốc tương ứng nào đó hiện đang lưu hành trên thị trường.
Một vài tài liệu khoa học cho biết trong một số rất ít trường hợp, sự kiện thay thế thuốc như trên sẽ không thích nghi, nhất là đối với những thuốc chỉ an toàn khi nó được sử dụng với một liều lượng thật chính xác!
 Chúng ta có thể hoàn toàn tin tuởng vào thuốc đồng dạng hay không"
ConsumerLab.com mấy năm gần đây có cho biết, không ít bệnh nhân Hoa Kỳ xài copie générique của thuốc là Toprol XL (succinate de métoprolol à libération prolongée) để trị cao áp huyết, rối loạn nhịp tim và nhức đầu, thì chẳng những bệnh không giảm mà còn bị áp huyết tăng lên, tim đập loạn xạ và nhức đầu thêm.
Sử dụng trở lại thuốc origine thì bệnh thuyên giảm rõ rệt!
Được biết năm 2007 tại Québec, bác sĩ đã kê 445.000 toa thuốc générique Metoprolol à libération prolongée.
Không thấy Santé Canada báo cáo gì hết!
Các xét nghiệm sau đó cho biết các copies génériques đều được sản xuất bởi Eon Labs và Ethex bên Hoa Kỳ.
Các thuốc đồng dạng génériques nói trên có chứa những chất không có hoạt tính (inactives) khác hơn những chất không có hoạt tính dùng trong thuốc nguyên gốc origines.
Có lẽ đây là lý do tại sao thuốc génériques đã gây ra những triệu chứng bất lợi nói trên.
Tháng 10/2007, thuốc đồng dạng générique của thuốc trị trầm cảm Wellbutrin XL cho thấy có những phản ứng bất lợi. Nguyên nhân do hoạt chất chính của thuốc générique không được tiết ra theo tốc độ mong muốn trong cơ thể của bệnh nhân.
http://www.passeportsante.net/fr/Actualites/Nouvelles/Fiche.aspx"doc=20080319826
Kết luận
Thuốc đồng dạng càng ngày càng xâm chiếm thị trường dược phẩm.
Nhờ giá bán rẻ, nên thuốc génériques đã giúp chánh phủ tiết kiệm được bộn xu trong chương trình bảo hiểm sức khỏe của Régie d’assurance maladie du Québec!
Nhà bào chế thuốc génériques hốt bạc do số lượng thuốc bán ra gia tăng thêm lên mãi!
Riêng phần người dược sĩ cũng sẽ được thêm lợi nhuận nhiều, nếu thuyết phục được bệnh nhân chuyển qua xài thuốc génériques thay vì thuốc origines đắt tiền!
Còn thuốc đồng dạng có 100% hiệu nghiệm, và an toàn như thuốc nguyên gốc không"
Một câu hỏi rất hay!
Và câu trả lời hợp tình hợp lý là: Tùy theo bệnh trạng, tùy theo bệnh nhân và cũng tùy theo loại thuốc nào nữa...
Thử uống vô một lần để so sánh, thì biết liền hà./.
Tham khảo:
-Myth: Generic drugs are lower quality and less safe than brand name drugs. June 2007
http://www.chsrf.ca/mythbusters/html/myth26_e.php
 -FDA. Generic drugs: What you need to know"
http://www.fda.gov/Drugs/EmergencyPreparedness/BioterrorismandDrugPreparedness/ucm1344
51.htm
-KevinMD.com Are generic drugs truly equivalent to brand name medication"
http://www.kevinmd.com/blog/2009/09/generic-drugs-equivalent-brand-medications.html
 Montreal, Jan 07, 2010

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
Hơn một thập niên trước, Shria Kumar, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Miami, bắt đầu chú ý đến một dấu hiệu đáng lo ngại. Có một số bệnh nhân ung thư dạ dày đến gặp bà ở độ tuổi rất trẻ, và rất nhiều người là phụ nữ. Khuynh hướng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Các khoa học gia đang nỗ lực tìm hiểu tại sao điều này lại xảy ra. Vào mùa xuân năm ngoái, họ đã xác nhận rằng hiện tượng này đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Sau khi kiểm tra hệ thống các cơ sở dữ liệu chứa các thông tin chi tiết về các trường hợp ung thư ở nhiều tiểu bang trên toàn quốc, các nhà nghiên cứu nhận thấy ung thư dạ dày đang gia tăng nhanh hơn ở phụ nữ trẻ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.