Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature, tình trạng buồn nôn và nôn mửa thường xảy ra trong giai đoạn ba tháng đầu của thai kỳ chủ yếu do một loại hormone gây ra. Các nhà nghiên cứu cho biết phát hiện này có thể dẫn tới những phương pháp điều trị tốt hơn cho tình trạng ốm nghén, kể cả những trường hợp hiếm gặp, nguy hiểm đến tánh mạng.
Nghiên cứu mới tái xác nhận một nghiên cứu trước đây, chỉ ra loại hormone có tên là GDF15. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng lượng hormone này lưu thông trong máu phụ nữ khi mang thai, cũng như tiếp xúc với nó trước khi mang thai, ảnh hưởng đến mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng.
Hơn hai phần ba phụ nữ mang thai gặp phải cảm giác buồn nôn và nôn mửa trong ba tháng đầu tiên. Và khoảng 2% thai phụ phải vào bệnh viện vì bị hội chứng ốm nghén nặng (hyperemesis gravidarum), gây ra tình trạng nôn mửa và cảm giác buồn nôn trong suốt thai kỳ. Tình trạng này có thể dẫn đến suy dinh dưỡng, sụt cân và mất nước. Nó còn làm tăng nguy cơ sinh non, tiền sản giật và huyết khối, đe dọa tính mạng của cả bà mẹ và thai nhi.
Các chuyên gia cho biết, bác sĩ thường xem nhẹ chứng ốm nghén, cho rằng những triệu chứng nghiêm trọng như vậy là do tâm lý, mặc dù nó chính là nguyên nhân hàng đầu khiến cho thai phụ phải vào bệnh viện trong thời kỳ đầu mang thai. Và dù trong những năm gần đây, nhiều nữ minh tinh như Kate Middleton và Amy Schumer đã chia sẻ những khó khăn của họ khi mang thai, tăng cường thu hút sự chú ý về tình trạng này, nhưng nó vẫn chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng.
Bác sĩ Marlena Fejzo, nhà di truyền học tại University of Southern California Keck School of Medicine và một trong các tác giả của nghiên cứu mới, cho biết: “Bản thân tôi đã nghiên cứu về vấn đề này trong 20 năm và vẫn có nhiều báo cáo về các trường hợp phụ nữ chết hoặc bị đối xử không công bằng vì tình trạng này.”
Chính bản thân bác sĩ Fejzo cũng đã trải qua nỗi đau từ chứng ốm nghén. Khi mang thai lần thứ hai vào năm 1999, bà cứ ăn, uống cái gì vào là nôn thốc nôn tháo ra hết. Cô sụt cân nhanh chóng, trở nên yếu đến mức đi đứng cũng không làm nổi. Bác sĩ của bà đã thì phớt lờ và cho rằng bà đang phóng đại các triệu chứng của mình để thu hút sự chú ý. Cuối cùng, bà phải vào bệnh viện và sảy thai ở tuần thứ 15.
Bác sĩ Fejzo đã yêu cầu National Institutes of Health tài trợ cho một nghiên cứu di truyền về chứng ốm nghén, nhưng đã bị từ chối. Không nản lòng, bà thuyết phục 23andMe, một công ty xét nghiệm di truyền nổi tiếng, đưa các câu hỏi về chứng ốm nghén trong các cuộc khảo sát trên hàng chục ngàn khách hàng. Vào năm 2018, bà đã xuất bản một bài báo cho thấy những khách hàng mắc chứng ốm nghén nặng thường có mang một biến thể gen GDF15.
Hormon là chất hóa học gửi các thông điệp đi khắp cơ thể. GDF15 được nhiều mô giải phóng để phản ứng với căng thẳng, chẳng hạn như nhiễm trùng. Và tín hiệu của nó rất đặc biệt: các cơ quan tiếp nhận hormone này tập trung ở một phần não chịu trách nhiệm gây ra cảm giác buồn nôn và nôn mửa.
Trong nghiên cứu mới, Bác sĩ Fejzo và các đồng nghiệp tại University of Cambridge ở Anh đã đo lượng hormone trong máu của các thai phụ và phân tích các yếu tố nguy cơ di truyền gây ra chứng ốm nghén. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những phụ nữ bị ốm nghén nặng có mức GDF15 cao hơn rất nhiều trong thai kỳ so với những người không có triệu chứng.
Nhưng tác dụng của hormone có vẻ như phụ thuộc vào sự nhạy cảm và tiếp xúc với hormone của thai phụ từ trước khi mang thai. Thí dụ, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng phụ nữ ở Sri Lanka mắc chứng rối loạn máu hiếm gặp khiến cho mức GDF15 cao trường kỳ, họ hiếm khi có cảm giác buồn nôn hoặc nôn mửa khi mang thai.
Bác sĩ Stephen O'Rahilly, người đứng đầu cuộc nghiên cứu, cho biết: “Họ hầu như chẳng có cảm giác buồn nôn gì lúc mang thai,” đồng thời đưa ra giả thuyết rằng việc tiếp xúc lâu dài với GDF15 trước khi mang thai có thể giúp thai phụ ít nhạy cảm hơn với sự gia tăng đột ngột của hormone gây ra do sự phát triển của thai nhi.
Trong các thí nghiệm, các khoa học gia đã cho một số con chuột tiếp xúc với một lượng nhỏ hormone này. Khi được tăng liều lượng lớn hơn vào ba ngày sau đó, những con chuột được tiêm không bị mất cảm giác thèm ăn như những con không được tiêm liều trước đó.
Những phát hiện mới mang lại hy vọng về các phương pháp điều trị tốt hơn cho chứng ốm nghén. Trong tương lai, những bà bầu nào bị ốm nghén quá nghiêm trọng có thể dùng thuốc để ngăn chặn tác động của GDF15 trong não, nếu các thử nghiệm lâm sàng cho thấy các loại thuốc đó an toàn trong thai kỳ. Các loại thuốc này đang được thử nghiệm trên bệnh nhân ung thư có triệu chứng mất cảm giác thèm ăn và nôn mửa, cũng do GDF15 gây ra.
Tình trạng này cũng có thể ngăn ngừa được. Những phụ nữ có nguy cơ, chẳng hạn như những người từng bị ốm nghén nặng trong lần mang thai trước, có thể tiếp xúc với GDF15 liều lượng thấp trước khi mang thai. (Một loại thuốc trị tiểu đường là metformin, làm tăng nồng độ GDF15 và hiện đã được kê đơn để hỗ trợ cho một số bệnh nhân.)
Bác sĩ Rachel Freathy, nhà di truyền học tại University of Exeter không tham gia vào nghiên cứu cho biết, nghiên cứu mới này rất có hiệu quả vì nó cung cấp bằng chứng di truyền về mối quan hệ nhân quả giữa GDF15 và chứng ốm nghén. Điều đó sẽ giúp tình trạng bệnh được thừa nhận rộng rãi hơn.
VB, Cung Đô sưu tầm/biên dịch
Nguồn: “Scientists Pinpoint Cause of Severe Morning Sickness” được đăng trên trang nytimes.com.
Gửi ý kiến của bạn