Hôm nay,  

Các Khoa Học Gia Tìm Ra Nguyên Nhân Khiến Nhiều Bà Bầu Nghén Nặng Vào Buổi Sáng

29/12/202300:00:00(Xem: 1459)

ba bau

Theo nghiên cứu mới, chứng ốm nghén khiến nhiều bà bầu khổ sở chủ yếu do loại hormone có tên là GDF15 gây ra. (Nguồn: pixabay.com)


Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature, tình trạng buồn nôn và nôn mửa thường xảy ra trong giai đoạn ba tháng đầu của thai kỳ chủ yếu do một loại hormone gây ra. Các nhà nghiên cứu cho biết phát hiện này có thể dẫn tới những phương pháp điều trị tốt hơn cho tình trạng ốm nghén, kể cả những trường hợp hiếm gặp, nguy hiểm đến tánh mạng. 
 
Nghiên cứu mới tái xác nhận một nghiên cứu trước đây, chỉ ra loại hormone có tên là GDF15. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng lượng hormone này lưu thông trong máu phụ nữ khi mang thai, cũng như tiếp xúc với nó trước khi mang thai, ảnh hưởng đến mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng.
 
Hơn hai phần ba phụ nữ mang thai gặp phải cảm giác buồn nôn và nôn mửa trong ba tháng đầu tiên. Và khoảng 2% thai phụ phải vào bệnh viện vì bị hội chứng ốm nghén nặng (hyperemesis gravidarum), gây ra tình trạng nôn mửa và cảm giác buồn nôn trong suốt thai kỳ. Tình trạng này có thể dẫn đến suy dinh dưỡng, sụt cân và mất nước. Nó còn làm tăng nguy cơ sinh non, tiền sản giật và huyết khối, đe dọa tính mạng của cả bà mẹ và thai nhi.
 
Các chuyên gia cho biết, bác sĩ thường xem nhẹ chứng ốm nghén, cho rằng những triệu chứng nghiêm trọng như vậy là do tâm lý, mặc dù nó chính là nguyên nhân hàng đầu khiến cho thai phụ phải vào bệnh viện trong thời kỳ đầu mang thai. Và dù trong những năm gần đây, nhiều nữ minh tinh như Kate Middleton và Amy Schumer đã chia sẻ những khó khăn của họ khi mang thai, tăng cường thu hút sự chú ý về tình trạng này, nhưng nó vẫn chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng.
 
Bác sĩ Marlena Fejzo, nhà di truyền học tại University of Southern California Keck School of Medicine và một trong các tác giả của nghiên cứu mới, cho biết: “Bản thân tôi đã nghiên cứu về vấn đề này trong 20 năm và vẫn có nhiều báo cáo về các trường hợp phụ nữ chết hoặc bị đối xử không công bằng vì tình trạng này.”
 
Chính bản thân bác sĩ Fejzo cũng đã trải qua nỗi đau từ chứng ốm nghén. Khi mang thai lần thứ hai vào năm 1999, bà cứ ăn, uống cái gì vào là nôn thốc nôn tháo ra hết. Cô sụt cân nhanh chóng, trở nên yếu đến mức đi đứng cũng không làm nổi. Bác sĩ của bà đã thì phớt lờ và cho rằng bà đang phóng đại các triệu chứng của mình để thu hút sự chú ý. Cuối cùng, bà phải vào bệnh viện và sảy thai ở tuần thứ 15.
 
Bác sĩ Fejzo đã yêu cầu National Institutes of Health tài trợ cho một nghiên cứu di truyền về chứng ốm nghén, nhưng đã bị từ chối. Không nản lòng, bà thuyết phục 23andMe, một công ty xét nghiệm di truyền nổi tiếng, đưa các câu hỏi về chứng ốm nghén trong các cuộc khảo sát trên hàng chục ngàn khách hàng. Vào năm 2018, bà đã xuất bản một bài báo cho thấy những khách hàng mắc chứng ốm nghén nặng thường có mang một biến thể gen GDF15.
 
Hormon là chất hóa học gửi các thông điệp đi khắp cơ thể. GDF15 được nhiều mô giải phóng để phản ứng với căng thẳng, chẳng hạn như nhiễm trùng. Và tín hiệu của nó rất đặc biệt: các cơ quan tiếp nhận hormone này tập trung ở một phần não chịu trách nhiệm gây ra cảm giác buồn nôn và nôn mửa.
 
Trong nghiên cứu mới, Bác sĩ Fejzo và các đồng nghiệp tại University of Cambridge ở Anh đã đo lượng hormone trong máu của các thai phụ và phân tích các yếu tố nguy cơ di truyền gây ra chứng ốm nghén. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những phụ nữ bị ốm nghén nặng có mức GDF15 cao hơn rất nhiều trong thai kỳ so với những người không có triệu chứng.
 
Nhưng tác dụng của hormone có vẻ như phụ thuộc vào sự nhạy cảm và tiếp xúc với hormone của thai phụ từ trước khi mang thai. Thí dụ, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng phụ nữ ở Sri Lanka mắc chứng rối loạn máu hiếm gặp khiến cho mức GDF15 cao trường kỳ, họ hiếm khi có cảm giác buồn nôn hoặc nôn mửa khi mang thai.
 
Bác sĩ Stephen O'Rahilly, người đứng đầu cuộc nghiên cứu, cho biết: “Họ hầu như chẳng có cảm giác buồn nôn gì lúc mang thai,” đồng thời đưa ra giả thuyết rằng việc tiếp xúc lâu dài với GDF15 trước khi mang thai có thể giúp thai phụ ít nhạy cảm hơn với sự gia tăng đột ngột của hormone gây ra do sự phát triển của thai nhi.
 
Trong các thí nghiệm, các khoa học gia đã cho một số con chuột tiếp xúc với một lượng nhỏ hormone này. Khi được tăng liều lượng lớn hơn vào ba ngày sau đó, những con chuột được tiêm không bị mất cảm giác thèm ăn như những con không được tiêm liều trước đó.
 
Những phát hiện mới mang lại hy vọng về các phương pháp điều trị tốt hơn cho chứng ốm nghén. Trong tương lai, những bà bầu nào bị ốm nghén quá nghiêm trọng có thể dùng thuốc để ngăn chặn tác động của GDF15 trong não, nếu các thử nghiệm lâm sàng cho thấy các loại thuốc đó an toàn trong thai kỳ. Các loại thuốc này đang được thử nghiệm trên bệnh nhân ung thư có triệu chứng mất cảm giác thèm ăn và nôn mửa, cũng do GDF15 gây ra.
 
Tình trạng này cũng có thể ngăn ngừa được. Những phụ nữ có nguy cơ, chẳng hạn như những người từng bị ốm nghén nặng trong lần mang thai trước, có thể tiếp xúc với GDF15 liều lượng thấp trước khi mang thai. (Một loại thuốc trị tiểu đường là metformin, làm tăng nồng độ GDF15 và hiện đã được kê đơn để hỗ trợ cho một số bệnh nhân.)
 
Bác sĩ Rachel Freathy, nhà di truyền học tại University of Exeter không tham gia vào nghiên cứu cho biết, nghiên cứu mới này rất có hiệu quả vì nó cung cấp bằng chứng di truyền về mối quan hệ nhân quả giữa GDF15 và chứng ốm nghén. Điều đó sẽ giúp tình trạng bệnh được thừa nhận rộng rãi hơn.
 
VB, Cung Đô sưu tầm/biên dịch
Nguồn: “Scientists Pinpoint Cause of Severe Morning Sickness” được đăng trên trang nytimes.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
Người ta vẫn thường nói “You are what you eat” (Những gì bạn ăn thể hiện bạn là ai). Nhưng có lẽ sẽ đúng hơn khi nói rằng những gì chúng ta ăn sẽ khiến chúng ta có những cảm xúc gì, bởi vì những tiến bộ trong lĩnh vực dinh dưỡng tâm thần học cho thấy chế độ dinh dưỡng đóng một vai trò quan trọng đối với sức khỏe tâm thần của chúng ta.
Răng khôn là những chiếc răng hàm thứ ba nằm ở phía sau cùng trong miệng. Chúng trông giống như răng hàm thứ nhất và thứ hai, nhưng đôi khi có thể nhỏ hơn một chút. Chúng thường được gọi là răng khôn vì chúng là những chiếc răng mọc cuối cùng trong số 32 chiếc răng cố định, xuất hiện từ 17 đến 25 tuổi, khi quý vị đã trưởng thành và chững chạc hơn.
Đặng Đình Bách: Tấm gương sáng về tinh thần đoàn kết cộng đồng và câu chuyện đau buồn về sự bất công cần phải khắc phục tại Việt Nam...
Số ca nhiễm vi rút hợp bào hô hấp (RSV) gia tăng, bệnh cúm đang lây lan rộng rãi và số lượng bệnh nhân phải vào bệnh viện cấp cứu ngày càng tăng. Tốt nhất là nên thực hiện các biện pháp phòng ngừa để bảo vệ bản thân, khách khứa và gia đình quý vị. Theo một cuộc khảo sát của tổ chức vô vụ lợi KFF (trước đây gọi là Kaiser Family Foundation), một nửa người dân Hoa Kỳ dự định thực hiện các biện pháp bảo vệ sức khỏe trong mùa lễ này. Một số lo lắng về nguy cơ mắc bệnh của chính mình; những người khác muốn bảo vệ người thân vì các loại bệnh hô hấp rất dễ lây truyền.
11 năm trước, các khoa học gia Jennifer Doudna và Emmanuelle Charpentier lần đầu tiên mô tả một phương pháp mới để chỉnh sửa gen, được gọi là CRISPR, trong một bài báo khoa học. Phát hiện mới rất quan trọng và đã giúp cho hai khoa học gia đoạt giải Nobel Hóa học năm 2020: nó có thể thay đổi cách điều trị các căn bệnh di truyền. Vào ngày 8 tháng 12 năm 2023, Cơ Quan Kiểm Soát Thực-Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chính thức chuẩn thuận phương pháp điều trị đầu tiên dựa trên công nghệ này ở Hoa Kỳ.
Noel hay Noël có nguồn gốc từ một từ tiếng Pháp cổ, “nael”, có nghĩa là “của hoặc sinh ra vào ngày Giáng Sinh”. Tên này bắt nguồn từ sự ra đời của Chúa Giêsu, được gọi là “natalis die” có nghĩa là “ngày sinh”, sau đó được dùng trong tiếng Anh trung cổ với tên gọi "Nowel". Kể từ thời Trung cổ, theo truyền thống những đứa trẻ sinh ra trong thời kỳ Giáng Sinh đã được đặt tên Noel. Mặc dù đây là một cái tên phổ biến cho cả nam và nữ, nhưng đôi khi con gái thì được được đánh vần là Noelle. Noel đã được hát bằng tiếng Latin hoặc tiếng Pháp trong nhiều thế kỷ trước khi những người nói tiếng Anh bắt đầu sử dụng từ này để chỉ các bài hát mừng Giáng Sinh vào thế kỷ 18. Việc sử dụng noel (đánh vần là nowell) có nghĩa là "Giáng Sinh" có thể được tìm thấy trong văn bản về truyền thuyết Arthurian vào cuối thế kỷ 14, sử dụng lần đầu tiên: thế kỷ 15 – viết hoa: CHRISTMAS.
Mỗi ngày, cơ thể chúng ta đều đối mặt với rất nhiều kẻ xâm nhập tiềm ẩn, đặc biệt là trong mùa lạnh và ở những vùng khí hậu lạnh. Những vi sinh vật này, được gọi là các tác nhân gây bệnh (hay mầm bệnh), xuất hiện dưới nhiều hình thức như vi-rút, vi khuẩn, ký sinh trùng và nấm. Hệ thống miễn dịch của cơ thể thiết lập nhiều tuyến phòng thủ để chống lại chúng. Và đây là cách hệ thống đa tầng này hoạt động.
Hàng năm, người dân Hoa Kỳ mua khoảng 35 triệu đến 50 triệu cây Giáng sinh, và cũng có nhiều người mang cây Giáng sinh nhân tạo từ nhà kho ra để dùng trong mùa lễ hội. Theo các cuộc khảo sát, tổng cộng khoảng 3/4 số hộ gia đình ở Hoa Kỳ thường sở hữu một số loại cây Giáng sinh nào đó. Nhiều người thường thắc mắc loại nào thực tiễn hơn – cây thật hay cây nhân tạo? Vấn đề này gây tranh cãi khá nhiều, và câu trả lời phụ thuộc vào người được hỏi và những yếu tố được xem xét.
Thuốc diệt siêu vi (Antiviral drugs) thường được coi là một phát minh của thế kỷ 20. Nhưng một nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra một điều bất ngờ trong hệ thống miễn dịch của chúng ta: Nó có thể tự mình tổng hợp các phân tử diệt siêu vi (antiviral) để phản ứng chống lại sự lây nhiễm của vi rút. Nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu về một loại protein tạo ra các phân tử diệt siêu vi tự nhiên. Khác xa với phát minh hiện đại của nhân loại, tự nhiên đã tiến hóa các tế bào tiến hóa để tạo ra “loại thuốc” của riêng chúng – biện pháp phòng vệ xa xưa nhất để chống lại virus.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.