Hôm nay,  

Còn Đó Tiếng Cười

02/01/202500:00:00(Xem: 675)

kt nha ca kl nh
Khánh Trường với thân hữu tại triển lãm tranh Khánh Trường ở Việt Báo Gallery, tháng 10, 2018. Từ trái: nhà văn Nhã Ca, ca sĩ Khánh Ly, ca sĩ Nhật Hạ, chị Oanh Thạch vợ Khánh Trường.
Tôi chạy tới nhà thương như một quán tính, tìm chỗ đậu xe một cách dễ dàng, nơi đây tôi đã ra vào quen thuộc, nơi đây tôi sắp sống với một cuộc chia ly mới. Tôi quen lắm hành lang phòng ICU, quen lắm với hình ảnh Bác Mai Thảo, Bác Đỗ Ngọc Yến, với Bố, với Mẹ... Và nay hình ảnh một thân quen quá đỗi hiện ra trước mắt - chú Khánh Trường! đang nhắm nghiền mắt, đang thoi thóp thở... Chị Hoà Bình ôm vai tôi, siết thật chặt. Hai chị em chẳng nói với nhau một lời, nhưng tôi hiểu, cả hai chị em, đang lục tìm trong quá khứ, để sống lại những ngày thật đằm thắm bên chú. 

Tuổi thơ của tôi gắn liền với hình ảnh của bác Mai Thảo, chú Khánh Trường và Bố.  Hôm nào họ cũng hẹn hò, họ cũng gặp nhau bù khú, rôm rả tiếng cười… Ồn ào nhất vẫn luôn là chú Khánh Trường, bô lô bô la: Lần này tiền ăn sáng là 500 đô, tôi trả! Ai cũng biết Chú chỉ nói dóc! Họ hẹn hò nhau mỗi ngày ở phở Nguyễn Huệ. Họ thường chiếm chiếc bàn tròn lớn ngay trung tâm. Bao giờ cũng vậy, họ chỉ có 3 người, nhưng chừng mươi phút thì mấy chiếc ghế chung quanh được kéo vào, có khi chen chúc nhau ngồi. Đây là lúc chú Khánh Trường “làm việc,” mắt chú bắt đầu rảo quanh để kiếm… nạn nhân, và rồi chú bắt đầu cười cười, mắt nheo nheo. Buông lời “đâm thọt.” 

- Anh ạ, cái thằng này có hôm nó nói thơ anh không phải thơ! Thế là sao hở anh?

- Ông đếch cần thằng nào khen thơ ông.

Vậy là mắt bác Mai Thảo lừ lừ, “đếch” liên tục. Bác càng “đếch” thì chú Khánh Trường càng bịa ra bao thứ, mặc cho nạn nhân phân trần. Có khi nạn nhân phải đứng dậy đi chỗ khác, chú khoái chí cười hô hố. Trò này diễn ra hàng ngày, nạn nhân có khi là người ở xa, có khi một người trẻ mới tập tành làm thơ… Chú bịa ra đủ thứ chuyện để bác Mai Thảo mắng. Có hôm nạn nhân là mẹ tôi.

- Anh ạ, bà Tuyền sắp ra tập thơ, nhờ em layout, đang muốn nhờ anh viết lời tựa. 

Bác Mai Thảo, dừng đũa, lừ lừ nhìn mẹ tôi. Mặc cho mẹ tôi cãi chính, chú vẫn bô bô

- Thật mà anh. Tôi đã layout nửa cuốn rồi. Chờ anh thôi ạ, anh viết cho bã vài dòng thôi, mới tập tễnh, khen lắm bã lại hăng mà ra thêm cuốn hai thì phiền!

Dù mẹ tôi nói như van chú thôi đi, nhưng chú vẫn châm vào khiến bác Mai Thảo không an tâm, đe doạ mẹ tôi: “Chớ nha em! Không được nha em!”

Hôm đó bố tôi cũng bị lừa, quay qua hỏi mẹ: “Thật không Tuyền!?” Cả bàn phá lên cười. Đương nhiên người cười to nhất là chú Khánh Trường. Nhiều người là nạn nhân của chú vậy mà ai cũng thương.  Trong đó có tôi. Thuở ấy, tôi là 1 đứa trẻ rụt rè, nhút nhát. Tôi không có bạn bè. Bù lại, những người bạn của Bố rất thương và nuông chìu tôi. Bác Cảnh cho tiền tôi đi học thêm. Bác Mai Thảo và chú Khánh Trường thì luôn kêu những món ăn tôi yêu thích.  Dù lúc ấy tôi đã tròn như hột mít, nhưng họ cứ cho tôi ăn. Trong mắt họ tôi luôn là đứa trẻ, cần được bảo bọc, cần phải ăn no, chóng lớn.  Họ ngồi hằng giờ với nhau, mỗi ngày mỗi tháng, hàng năm, mà không hề chán nhau. Trong trí nhớ của tôi, chú Khánh Trường là người yêu cái đẹp. Chú có thể đắm chìm trong nhan sắc của một nàng thơ.  Nhưng ngoài vợ ra, chú chỉ yêu bạn bè.  Chú có thể nhìn say đắm một người phụ nữ, cứ ngỡ chú đang yêu cuồng dại, nhưng nếu bác Mai Thảo hay bố tôi gọi, chú sẽ bỏ ngay để chạy tới với bạn. Trong mắt tôi, chú Khánh Trường cuồng, nhưng không hề dại.  

Trong miền thơ ấu của tôi, chú Khánh Trường ngang tàng, hào sảng… Vậy mà có một ngày, bệnh ập đến với chú. Những người thân xung quanh tôi, có lẽ chú là người đón nhận bệnh tật đầu tiên.  Và dù có bao lần dỗ bệnh, nó cứ ập tới với chú một cách thô bạo, nó dày vò thể xác chú.  Tuy vậy, bạo bệnh, không làm giảm đi sự nồng nhiệt với đời, nồng nàn với văn chương, hội hoạ. Chú vẫn sừng sững như cây tùng, cây bách, chú ngạo nghễ với đời. Những căn bệnh không cướp đi của chú sự ngang tàn. Chúng lại càng không cướp đi được tiếng cười giòn tan.  Sau này, những lần gặp gỡ, khi được ngồi cạnh chú, tôi luôn nhắm mắt vài giây.  Trong những giây phút đó, tiếng cười của chú luôn đưa tôi về quá khứ, với hình ảnh của Bố tôi và Bác Mai Thảo. Tiếng cười hăng hắc của chú Khánh Trường khi chọc phá người này, trêu ghẹo người khác. Tiếng cười giòn giã của chú cũng kèm theo hình ảnh bác Cảnh trong quán Nguyễn Huệ - một ông Hà Thành đỏm dáng, đi tới đi lui với điếu thuốc điệu đàng trên tay. Tôi thấy lại bác Bùi Bảo Trúc với đôi mắt láu lỉnh, luôn châm chọc, giễu cợt một ai đó, bác thích bánh đậu xanh…, Họ nói lớn, cười vang như cùng là chủ nhân của tiệm phở Nguyễn Huệ,

Khanh Truong và Orchid

Họa sĩ Khánh Trường và Orchid Lâm Quỳnh, buổi chiều cuối tháng Ba, 2024.

Suốt một tuần lễ, dù có bận rộn với những ngày cuối năm, lòng tôi, trí tôi vẫn quay về nơi chốn quen thuộc - nhà thương. Tôi không còn sợ nhà thương. Những năm sau này, tôi gọi đó là nhà thương, chứ không gọi là bệnh viện, vì nơi đây, đã đem đến cho tôi những vết thương, rất cần thiết trong đời sống. Tôi vào nhà thương để tìm lại tiếng cười của chú.  Tiếng cười với những người của muôn năm cũ. Nhưng cả tuần qua, nơi đây chỉ có sự tĩnh lặng, tàn nhẫn. 

Tối hôm qua, chú Khánh Trường đã về với tôi trong giấc mơ.  Tôi nhìn rõ khuôn mặt rạng ngời của chú.  Tiếng chú cười lớn trong sớm mai.  Tôi và chị Hoà Bình, ôm chầm lấy chú.  Ba chú cháu chụp với nhau cả triệu tấm hình.  Tim tôi không còn bị cuốn đi bởi nỗi buồn bất biến mà là niềm hạnh phúc vô biên bên chú bên chị.  

Chú ơi, chú đi bình an.  Khi gặp Bố, Bác Mai Thảo, Bác Bùi Bảo Trúc, Bác Cảnh… chú ôm họ thật chặt dùm con. Chú nhớ “dọa” với bác Mai Thảo mẹ con sẽ vẫn chờ lời giới thiệu của bác ấy, nhớ gọi thật nhiều món ăn, và để bác Cảnh trả tiền nghe chú. 
  
Orchid Lâm Quỳnh
 

Ý kiến bạn đọc
04/01/202518:29:53
Khách
Bài viết cảm động và hay
Q vẫn vậy ❤️
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Phát thanh viên Nhã Lan của kênh truyền hình Hồn Việt TV (Orange County, CA) nói chuyện với nhà văn / nhà thơ Trịnh Y Thư về văn chương và các điều khác...
Lũ con cháu chúng tôi sang thăm cô Nhã chú Từ ở thành phố Malmo, miền Nam Thụy Điển, vào khoảng giữa tháng 10 2024. Có chúng tôi về, cô chú vui lắm và thường cùng chúng tôi ra ngoài dạo phố, ngắm cảnh, ăn uống. Trong một buổi chiều đi uống cà phê, chúng tôi chụp được tấm hình cô chú nắm tay nhau đi dạo trong một công viên thanh bình, khi trời đất vào thu, dưới ánh nắng nghiêng nghiêng của buổi hoàng hôn cuối ngày. Chúng tôi đặt tên tấm hình đó là “Vẫn nắng vàng dù buổi chiều của đời”, là câu đầu tiên trong bài hát Vầng Trăng Xưa, chú Từ sáng tác trong trại giam Hàm Tân vào năm 1985.
Tác phẩm Drei Kameraden (Three Comrades) năm 1936 của văn hào Đức, Erich Maria Remarque (1898-1970) Tâm Nguyễn dịch với tựa đề Chiến Hữu, nhà xuất bản Kinh Thi ấn hành năm 1972, gồm 28 chương dày bảy trăm trang. Đệ Nhất Thế Chiến, Remarque ở tuổi 19, bị động viên vào Quân Đội Hoàng Gia Đức, thuyên chuyển về Mặt Trận Miền Tây (The Western Front), bị thương vì các mảnh đạn bắn vào chân trái, tay phải và vào cổ, nên được tản thương về bệnh viện, điều trị cho đến khi chiến tranh kết thúc rồi được giải ngũ khỏi Quân Đội Đức. Sau khi chiến tranh chấm dứt Remarque bị ám ảnh bởi các cảnh tàn phá của chiến tranh, thân phận con người, người lính trong và sau giai đoạn bi thương của lịch sử.
Nguyễn Du là tác giả của “Truyện Kiều” và nhà văn người Đức Johann Wolfgang von Goethe là tác giả kịch thơ “Faust”. Nguyễn Du được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào" và được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới” vào năm 2013 cùng 107 danh nhân khác. Nếu người Việt tự hào về Nguyễn Du thì người Đức cũng rất tự hào về nhà văn lớn của họ là Goethe. Theo Viện Nghiên cứu xã hội và phân tích thống kê Đức (Forsa), Geothe được xếp đứng hàng đầu trong danh sách „Những người Đức vĩ đại nhất mọi thời đại“ [1]. Sau đó mới đến vị thủ tướng đầu tiên của Cộng Hòa Liên Bang Đức là Konrad Adenauer (1876-1967) đứng hạng nhì và đứng hạng thứ ba lại là nhà khoa học gia Albert Einstein (1879-1955), cha đẻ của Thuyết tương đối.
Với tài năng hội họa, văn, thơ, và nhất là tấm lòng và ý chí bền bỉ với văn học nghệ thuật, Khánh Trường đã chinh phục một số lượng độc giả và giới thưởng ngoạn nghệ thuật lớn, từ hải ngoại về đến trong nước, từ nhiều thập niên qua, và có lẽ Ông sẽ mãi được nhớ đến trong văn sử Việt là người khai phóng một nền văn học hậu chiến ở hải ngoại và trong nước qua tờ báo văn học Hợp Lưu. Sau ba cơn tai biến Ông đã phải mang nhiều bệnh tật, nhưng sự ra đi của ông vào cuối năm 29 tháng 12, 2024 vừa qua vẫn gây bàng hoàng đối với những người thân yêu và mến mộ ông. Nỗi niềm thương tiếc này được biểu hiện bằng đôi lời chia biệt với ông và gia đình từ khắp nơi. Việt Báo trích đăng lại.
Như anh có lần tâm sự, thủa 13, anh đã bỏ quê nhà Quảng Nam, lên Đà Lạt, sống đời lang bạt, ăn bờ ngủ bụi, thậm chí “biết tình yêu gái điếm” dù còn non choẹt. Rồi anh xuống Sài Gòn, không muốn tiếp tục làm du đãng, anh đăng lính, dù chưa đủ tuổi. Có sao đâu, chiến tranh đang lên cao điểm mà, quân đội cần lính, nhất là lính Dù, những người lỳ lợm, can đảm, tự nguyện. Những năm chiến trận, đúng châm ngôn “Nhẩy Dù cố gắng”, anh sống trọn với đồng đội, với màu cờ sắc áo. Bị thương nhiều lần, anh buộc phải giải ngũ. Đời sống dân sự chưa được bao lâu thì “xẩy đàn tan nghé”, ngày 30 Tháng Tư 75, anh bị “bên thắng cuộc” liệt vào hàng ngũ “bên thua cuộc”. Vì là cấp hạ sĩ quan, anh không chịu chung số phận như hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức, bị đầy đọa nhiều năm tháng trong các trại tù mà chế độ mới gọi bằng mỹ từ “cải tạo”. Nhưng anh vẫn bị nghi kỵ, bị phân biệt đối xử ngay chính trên quê hương mình.
Chúng tôi quen nhau bắt đầu bằng một… thùng sách...
Giữa mình và Khánh Trường có chút tình văn nghệ tuy thỉnh thoảng mới gặp nhau. Nay Khánh Trường vừa ra đi xin đăng lại một bài viết về Trăng Thiền cách đây cũng đã mươi năm nhân Khánh Trường triển lãm một loạt tranh mới chủ đề là Đáo Bỉ Ngạn và có gởi cho Nguyễn hình chụp một số bức để đưa lên Phố Văn. Xin mời bạn đọc theo dõi bài viết.
Thật ra, trước 1975, tôi cũng đã đọc nhiều sách, nhiều tạp san văn học ở Sài Gòn, (hay tỉnh lẻ), tôi chưa đọc đến tên Khánh trường, biết tên Khánh Trường. Tên đó (hay bút danh đó) hoàn toàn xa lạ đối với tôi.
Bạn hãy giữ lòng cho thật vui để ra đi. Trang sách cuối của Hợp Lưu bây giờ đã khép lại. Tay của bạn đã thả rơi ngòi bút và cọ màu. Bạn đã nằm xuống sau một đời lặn lội. Hãy gối đầu lên những kệ sách ký ức. Đã tới lúc bạn hãy buông xả hết, để tự thấy đời mình trôi theo dòng sông chữ nghĩa, nơi đã chép xuống những gì đẹp nhất của thế hệ chúng ta. Bạn hãy giữ lòng cho thật vui để ra đi. Cuộc đời luôn luôn là những bước ra đi. Bạn không có gì để nuối tiếc trong đời này. Bạn đã tự vắt kiệt máu trong tim ra để làm sơn cho tranh vẽ và để làm mực cho những trang báo. Nơi đó là ước mơ của yêu thương và hòa giải. Nơi đó là sự ngây thơ nghệ sĩ mà chúng ta đã đem tặng cho đời.
Thông báo thay đổi giao diện trang nhà mới của Thư Viện Hoa Sen
Tin tức các cơ sở hội đoàn thông báo cộng đồng
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.