Hôm nay,  

Thôi anh về mở sách giữa trời xanh!

01/01/202521:06:00(Xem: 433)
Tưởng niệm Khánh Trường

IMG_9581
Khánh Trường, bản vẽ của Đinh Trường Chinh.


Có những người đến và ở lại trong tâm tưởng ta thâm tình, dài lâu đến mức ta tưởng ta còn sống thì người cũng sống. Nhưng tôi đã quên, tôi chỉ là một dòng chảy lẻ khi tìm về hợp lưu cùng họ - những nhánh sông lớn bắt nguồn từ một lịch sử rất gần đầy bi thống của tộc Việt, từ đó ào ạt tiếp. Nhưng tôi đã quên, tôi thuộc lớp người lớn lên trong hầm trú ẩn, chạy chơi giữa giao thông hào ở một miền đất nước. Còn họ, ở miền kia đất nước mình khi đó đã từng trải từ núi cao tới vực sâu, từ chiều biên giới qua rừng lá thấp, từng trả lại em yêu khung trời đại học và viết tình thư của lính lâu rồi. Bây giờ thì tôi biết rồi: từ nguồn hợp lưu, những dòng chảy lại tìm về chính mình, đơn hành vào một cõi khác. Như anh Khánh Trường.

Tôi biết Khánh Trường vừa như một ngẫu nhiên, vừa như một sự tự ý thức. Và tôi tin anh cũng nghĩ thế về tôi.

Năm ấy, 1994, tôi qua Đức, với một quyết định khiến nhiều đồng nghiệp bạn bè kinh ngạc. Đang là một giáo viên văn trẻ, thuộc nhóm bốn giáo viên được tuyển chọn để dạy những học sinh năng khiếu đặc biệt tại trường phổ thông trung học Hà Nội - Amsterdam - ngôi trường mà từ ngày thành lập tới nay có tiếng là trường chất lượng hạng nhất Việt Nam, đang sống rất tốt bằng nghề trong điều kiện rất nhiều người cùng trang lứa, cùng ăn học đến đầu đến đũa phải vật vã vì cơm áo, tôi bỏ tất cả theo chồng, bắt đầu một đoạn đời mới đầy hoang mang, không hề có một chuẩn bị gì trước ở xứ người. Báo chí Việt, văn chương Việt là cả một xa xỉ lớn thời đó nơi tôi sống - nơi lớp lớp người Việt thuộc thế hệ lớn lên dưới mái trường Xã Hội Chủ Nghĩa tứ tán đi làm đi học ở các nước Đông Âu vội vã nhào qua bức tường sụp ở Berlin, tìm đất sống mới. Kiếm việc nuôi thân, gửi về lo cho gia đình - những bước đầu tiên của người Việt tại Đức lúc đó cũng hệt như những bước đường đầu tiên của bà con ta tại Mỹ sau 1975. Nhưng, tại Mỹ bà con ta được quyền cư trú yên ổn ngay, còn ở Đức thì không thế. Sau này tôi cứ nghĩ không thể nghe thấy ở Đức câu hỏi hào hùng bi tráng bằng tiếng Việt kiểu “Ta làm gì cho hết nửa đời sau” của Cao Tần có lẽ một phần vì lí do này.

Nhưng ngay cả ở Mỹ, thì không phải ai người Việt cũng muốn hỏi hay nghe một câu hỏi như thế, phải không?

Ở Đức, tôi đã nghe vang vang câu hỏi ấy khi lần đầu tiếp xúc với chữ nghĩa Việt hải ngoại. Nhờ một người bạn là anh Nguyễn Hoàng Linh hiện là chủ bút tờ Nhịp cầu thế giới tại Hung, tôi có trong tay một danh sách các tờ báo, tạp chí của người Việt ở ngoài nước. Làm gì có tiền để đặt mua, còn bị thúc bách bởi điều kiện cư trú tính ngày tính tháng, mà lại muốn biết, biết để tự hệ thống lại về văn học miền Nam trước 1975, biết để nhận diện văn học Việt sinh thành nơi đất lạ, tôi chỉ có một cách duy nhất: viết thư xin.

Tôi biết Khánh Trường và bạn hữu đồng chí hướng với anh không phải vì anh là người đầu tiên gửi sách cho tôi. Rất nhiều. Một thùng lớn chứa rất nhiều tên tuổi của văn học Việt ở miền Nam trước 1975: Võ Phiến. Nguyên Sa. Mai Thảo. Thế Uyên. Nhã Ca. Ngô Kha… Văn xuôi. Thơ. Nghị luận chính trị. Và: một chồng Hợp Lưu từ số đầu.

Nếu không có những cuốn sách của những tên tuổi kia, nếu không có những số Hợp Lưu  với những bài nghị luận khách quan, sâu sắc, đầy hứng khởi và niềm tin, cùng những sáng tác làm tôi choáng váng của Đỗ Kh., Trần Vũ bên những sáng tác của người cũng từng làm tôi choáng váng mừng rỡ từ hồi còn ở trong nước như Nguyễn Huy Thiệp, tôi tin chắc không có một Lê Minh Hà người viết hôm nay. Từ rất nhiều năm trước đó, khi còn là một cô gái nhỏ, sau bao nhiêu lần ngồi nghe chuyện đời chuyện nghề giữa các văn nghệ sĩ nổi danh, như Phạm Tiến Duật, Nhật Tuấn… tôi đã tự chẹt cổ ước mộng thành văn sĩ, hoàn toàn yên tâm với cái nghề đã chọn mình: nghề giáo. Tôi, trước khi qua Đức, không bao giờ nghĩ mình viết lại. Đó có thể là nghiệp. Nhưng, đó cũng vừa là một ngẫu nhiên vừa là một tự chọn lựa có được bởi Hợp Lưu. Giả dụ, nếu những ngày đầu tiên ấy tôi tiếp xúc với Làng Văn, có thể tôi vẫn là một độc giả trung thành, vì thực sự nhiều tác giả Làng Văn viết rất có giọng, nhưng chắc chắn tôi sẽ không thành người viết Lê Minh Hà từ đó tới bây giờ.

Cũng phải nói rằng trước Hợp Lưu tôi đã đọc được đôi số Trăm Con, đôi số Diễn đàn Paris, đôi số Văn Học và Văn. Và nhờ thế mà biết Hợp Lưu trước khi có trong tay địa chỉ của Khánh Trường, để hát anh nghe bài tiến tùng và xin sách. Do đó, Hợp Lưu với tôi đích thị là nghiệp.

Những sáng tác đầu tiên tôi công bố ở hải ngoại đi trên Hợp Lưu và sau đó trên Văn Học, Văn. Bây giờ, các anh đều đã là người cõi khác, không ai biết tại sao tôi lại gửi sáng tác tới các anh. Đơn giản: đọc chạc mãi thì thẹn, góp chữ kể cả không được dùng là để đỡ thẹn, vì biết những người đang hì hục với chữ nghĩa Việt ở hải ngoại những năm tháng đó có dư dả chăng thì cũng chỉ là dư dả hơn mình. Hợp Lưu là địa chỉ tôi chọn đầu tiên. Đơn giản: Hợp Lưu gần tôi nhất trong quan niệm về văn học, của tộc Việt mình, ở hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, lúc ở nước Đức nơi tôi sống người Việt mình ào ạt đổ qua và dù không có một dòng Bến Hải thì vẫn tự phân chia thành tường nhân và thuyền nhân, miệt thị nhau thuyền nhân là Kiều Vẹo, tường nhân là Xù, Cộng. Một lí do khác xin được nói rất nhỏ: Văn học và Văn lúc đầu tôi ngại, do đã được mấy anh đi từ miền Nam sau 1975 cảnh cáo là đừng hi vọng được chấp nhận ở đó, vì tôi là người miền Bắc, người Hà Nội, là nguyên cháu ngoan bác Hồ, vân vân và mây mây.

Cho đến bây giờ tôi vẫn tin vào đạo chữ. Đạo chữ soi rọi cho người ta nhìn nhau, thấu suốt nhau và tin nhau, vượt lên trên mọi chấp niệm lịch sử để tìm tới, trụ lại với tính người. Tôi đã vô tình biết qua Nguyễn Huy Thiệp, rằng anh biết tới Lê Minh Hà là qua Khánh Trường. Chưa bao giờ Khánh Trường nói với tôi điều gì khác ngoài những lời hỏi bài, thông báo đi bài. Hóa ra, anh đọc sáng tác của tôi và nhìn thấy ở đó một hiện tượng văn học. Anh Khánh Trường, anh có thấy em chính là minh chứng của tinh thần Hợp Lưu không?

Cuốn sách đầu tiên của tôi - Trăng Goá - do Khánh Trường làm bìa. Nếu không có một ngẫu nhiên khác, thì cuốn sách đó chắc do anh lo liệu từ A tới Z. Lúc đó tôi còn chưa có tiền mua máy tính, bản thảo toàn viết tay bấm bụng gửi bưu điện đắt lè lưỡi. Tôi toàn phải liên lạc với anh Khánh Trường, anh Nguyễn Mộng Giác và sau đó là anh Nguyễn Xuân Hoàng qua một địa chỉ Email mà chủ nhân của nó sống cách chúng tôi gần 200 km. Trong cùng một ngày, buổi sáng tôi nhận lời đề nghị làm sách của anh Nguyễn Mộng Giác thì buổi chiều cậu em sinh viên nhắn tin có Email của Khánh Trường với đề nghị tương tự. Vậy là cuốn sách của tôi ra đời, do Thanh Văn xuất bản, với lời giới thiệu của Nguyễn Mộng Giác và bìa của Khánh Trường. Tôi không biết mỗi nhà sách có một họa sĩ làm bìa riêng. Anh Khánh Trường đã làm bìa cho tôi theo lời tôi xin và anh Nguyễn Mộng Giác cùng chủ nhà xuất bản Thanh Văn đã chấp thuận in cái bìa đó. Sự vô ý của tôi đã được đáp lại bằng sự tế nhị tuyệt vời từ nhiều phía. Cuốn sách thứ hai của tôi - Gió biếc - cũng ra đời theo đúng tiến trình ấy. Gần ba mươi năm trời nay, khi nghĩ lại con đường văn chương của mình buổi đầu, tôi biết rằng mình may mắn khi đã gặp Khánh Trường, Nguyễn Mộng Giác, và nhờ các anh, quen biết nhiều nhà văn tài danh khác ở hải ngoại như Võ Phiến, Nhật Tiến, Nguyễn Xuân Hoàng… qua chữ. Chữ đúng là có đạo thật. Chữ dạy tôi về tình người, về tính người. Chữ cho tôi biết cảm giác biết ơn tuyệt vời đến như thế nào.

Thế nhưng trừ một lần gặp Nguyễn Mộng Giác và Du Tử Lê, tôi chưa từng gặp ai trong số các tác giả mình tín phục khi đến với văn học miền Nam trước 1975 và văn học hải ngoại sau này. Tôi chưa từng gặp Khánh Trường, chưa từng nghe giọng anh. Vĩnh viễn.

Cuộc sống là một chuỗi ngày dằng dặc những trắc trở, có lúc tưởng đánh gục mình. Tôi đã từng phải sống những trắc trở đó. Mười năm trời! Đến lúc tỉnh hồn, nhờ có FB, tôi gặp Khánh Trường và mừng rỡ gọi cho anh qua Facetime. Hỡi ôi! Anh Khánh Trường trả lời: Mười bảy năm nay anh không nói được! Tôi biết anh từng ốm nặng qua mỗi lần chuyển giao vị trí chủ bút. Nhưng tôi không ngờ.

Từ bấy, tôi ít khi liên lạc với Khánh Trường. Thân phụ nữ, phận đàn bà, và cả sự chênh giờ khiến tôi không thể khác. Nhưng tôi vẫn theo anh qua FB của anh. Tôi biết anh ngồi xe lăn, không nói được, nhưng rất đông bè bạn. Làm cách nào mà người ta có thể giữ giao tình từng ngày với một người bệnh ngồi xe lăn, không nói được nữa? Câu trả lời không nằm ở bạn hữu, mà nằm ở Khánh Trường. Người lính dù ấy (phải thế không) chưa bao giờ là người chiến bại trong cuộc đời. Anh viết tiểu thuyết, anh vẽ và triển lãm, anh bận bịu với những dự định văn chương mới, với một tạp chí mới mà nhìn ảnh bìa là tôi nhớ ngay tới Hợp Lưu. Khó mà nói hết nỗi vui mừng và cả ngậm ngùi của tôi khi nhận được tin anh nhắn “ gửi anh xin 1 truyện ngắn mới chưa đăng đâu, kể cả internet để đi vào mở nguồn, báo giấy, sắp ra mắt.” Vì sau đó là đại dịch CoVid, là những ngày lo sợ mong không thấy tên người quen thân trên một dòng tin bằng chữ Việt, về sự CoVid mang người người đi khắp thế giới này.

Bây giờ thì Khánh Trường đi. Tôi, một học sinh lớn lên dưới mái trường Xã hội chủ nghĩa từng hát đồng ca “cháu yêu chú bộ đội” rất thích một bức ảnh của Khánh Trường - một người lính Việt Nam Cộng Hoà:  binh phục, giày trận, đang ngồi dựa lưng vào một bức tường. Nhìn bức ảnh đen trắng đó, không hiểu sao tôi cứ hình dung hàng hàng những người lính trận, từ hai miền Bắc Nam, ngồi ngơi nghỉ thế, rồi đứng lên, bắt đầu một cuộc đời mới ở nơi bát ngát lúa về.

Anh đi nhé! Anh Khánh Trường đi nhé
Vẫy vào không gian những nét cọ tung hoành
Giày lính trận nửa đời rồi tháo bỏ
Thôi anh về mở sách giữa trời xanh!

-- Lê Minh Hà

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Phát thanh viên Nhã Lan của kênh truyền hình Hồn Việt TV (Orange County, CA) nói chuyện với nhà văn / nhà thơ Trịnh Y Thư về văn chương và các điều khác...
Lũ con cháu chúng tôi sang thăm cô Nhã chú Từ ở thành phố Malmo, miền Nam Thụy Điển, vào khoảng giữa tháng 10 2024. Có chúng tôi về, cô chú vui lắm và thường cùng chúng tôi ra ngoài dạo phố, ngắm cảnh, ăn uống. Trong một buổi chiều đi uống cà phê, chúng tôi chụp được tấm hình cô chú nắm tay nhau đi dạo trong một công viên thanh bình, khi trời đất vào thu, dưới ánh nắng nghiêng nghiêng của buổi hoàng hôn cuối ngày. Chúng tôi đặt tên tấm hình đó là “Vẫn nắng vàng dù buổi chiều của đời”, là câu đầu tiên trong bài hát Vầng Trăng Xưa, chú Từ sáng tác trong trại giam Hàm Tân vào năm 1985.
Tác phẩm Drei Kameraden (Three Comrades) năm 1936 của văn hào Đức, Erich Maria Remarque (1898-1970) Tâm Nguyễn dịch với tựa đề Chiến Hữu, nhà xuất bản Kinh Thi ấn hành năm 1972, gồm 28 chương dày bảy trăm trang. Đệ Nhất Thế Chiến, Remarque ở tuổi 19, bị động viên vào Quân Đội Hoàng Gia Đức, thuyên chuyển về Mặt Trận Miền Tây (The Western Front), bị thương vì các mảnh đạn bắn vào chân trái, tay phải và vào cổ, nên được tản thương về bệnh viện, điều trị cho đến khi chiến tranh kết thúc rồi được giải ngũ khỏi Quân Đội Đức. Sau khi chiến tranh chấm dứt Remarque bị ám ảnh bởi các cảnh tàn phá của chiến tranh, thân phận con người, người lính trong và sau giai đoạn bi thương của lịch sử.
Nguyễn Du là tác giả của “Truyện Kiều” và nhà văn người Đức Johann Wolfgang von Goethe là tác giả kịch thơ “Faust”. Nguyễn Du được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào" và được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới” vào năm 2013 cùng 107 danh nhân khác. Nếu người Việt tự hào về Nguyễn Du thì người Đức cũng rất tự hào về nhà văn lớn của họ là Goethe. Theo Viện Nghiên cứu xã hội và phân tích thống kê Đức (Forsa), Geothe được xếp đứng hàng đầu trong danh sách „Những người Đức vĩ đại nhất mọi thời đại“ [1]. Sau đó mới đến vị thủ tướng đầu tiên của Cộng Hòa Liên Bang Đức là Konrad Adenauer (1876-1967) đứng hạng nhì và đứng hạng thứ ba lại là nhà khoa học gia Albert Einstein (1879-1955), cha đẻ của Thuyết tương đối.
Với tài năng hội họa, văn, thơ, và nhất là tấm lòng và ý chí bền bỉ với văn học nghệ thuật, Khánh Trường đã chinh phục một số lượng độc giả và giới thưởng ngoạn nghệ thuật lớn, từ hải ngoại về đến trong nước, từ nhiều thập niên qua, và có lẽ Ông sẽ mãi được nhớ đến trong văn sử Việt là người khai phóng một nền văn học hậu chiến ở hải ngoại và trong nước qua tờ báo văn học Hợp Lưu. Sau ba cơn tai biến Ông đã phải mang nhiều bệnh tật, nhưng sự ra đi của ông vào cuối năm 29 tháng 12, 2024 vừa qua vẫn gây bàng hoàng đối với những người thân yêu và mến mộ ông. Nỗi niềm thương tiếc này được biểu hiện bằng đôi lời chia biệt với ông và gia đình từ khắp nơi. Việt Báo trích đăng lại.
Như anh có lần tâm sự, thủa 13, anh đã bỏ quê nhà Quảng Nam, lên Đà Lạt, sống đời lang bạt, ăn bờ ngủ bụi, thậm chí “biết tình yêu gái điếm” dù còn non choẹt. Rồi anh xuống Sài Gòn, không muốn tiếp tục làm du đãng, anh đăng lính, dù chưa đủ tuổi. Có sao đâu, chiến tranh đang lên cao điểm mà, quân đội cần lính, nhất là lính Dù, những người lỳ lợm, can đảm, tự nguyện. Những năm chiến trận, đúng châm ngôn “Nhẩy Dù cố gắng”, anh sống trọn với đồng đội, với màu cờ sắc áo. Bị thương nhiều lần, anh buộc phải giải ngũ. Đời sống dân sự chưa được bao lâu thì “xẩy đàn tan nghé”, ngày 30 Tháng Tư 75, anh bị “bên thắng cuộc” liệt vào hàng ngũ “bên thua cuộc”. Vì là cấp hạ sĩ quan, anh không chịu chung số phận như hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức, bị đầy đọa nhiều năm tháng trong các trại tù mà chế độ mới gọi bằng mỹ từ “cải tạo”. Nhưng anh vẫn bị nghi kỵ, bị phân biệt đối xử ngay chính trên quê hương mình.
Chúng tôi quen nhau bắt đầu bằng một… thùng sách...
Giữa mình và Khánh Trường có chút tình văn nghệ tuy thỉnh thoảng mới gặp nhau. Nay Khánh Trường vừa ra đi xin đăng lại một bài viết về Trăng Thiền cách đây cũng đã mươi năm nhân Khánh Trường triển lãm một loạt tranh mới chủ đề là Đáo Bỉ Ngạn và có gởi cho Nguyễn hình chụp một số bức để đưa lên Phố Văn. Xin mời bạn đọc theo dõi bài viết.
Thật ra, trước 1975, tôi cũng đã đọc nhiều sách, nhiều tạp san văn học ở Sài Gòn, (hay tỉnh lẻ), tôi chưa đọc đến tên Khánh trường, biết tên Khánh Trường. Tên đó (hay bút danh đó) hoàn toàn xa lạ đối với tôi.
Bạn hãy giữ lòng cho thật vui để ra đi. Trang sách cuối của Hợp Lưu bây giờ đã khép lại. Tay của bạn đã thả rơi ngòi bút và cọ màu. Bạn đã nằm xuống sau một đời lặn lội. Hãy gối đầu lên những kệ sách ký ức. Đã tới lúc bạn hãy buông xả hết, để tự thấy đời mình trôi theo dòng sông chữ nghĩa, nơi đã chép xuống những gì đẹp nhất của thế hệ chúng ta. Bạn hãy giữ lòng cho thật vui để ra đi. Cuộc đời luôn luôn là những bước ra đi. Bạn không có gì để nuối tiếc trong đời này. Bạn đã tự vắt kiệt máu trong tim ra để làm sơn cho tranh vẽ và để làm mực cho những trang báo. Nơi đó là ước mơ của yêu thương và hòa giải. Nơi đó là sự ngây thơ nghệ sĩ mà chúng ta đã đem tặng cho đời.
Thông báo thay đổi giao diện trang nhà mới của Thư Viện Hoa Sen
Tin tức các cơ sở hội đoàn thông báo cộng đồng
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.