Hôm nay,  

Khánh Trường (1948-2024) người nhiều tài văn hóa và thích đứng đầu gió.

02/01/202500:00:00(Xem: 494)
Bìa-sách-Nắng-Qua-Đèo-Khánh-Trường
 
Gần đây tôi tới thăm Khánh Trường (KT) nhiều lần ở trong mấy căn nhà đầu đường rất dễ kiếm trong khu mobile home trên đường Bolsa, nhiều lần tới nỗi mỗi khi xe chạy ngang đây thì Ngọc Ánh nhắc: ‘Hay ta vào thăm KT.’

Không được tiếp xúc với KT khi tôi còn ở bên Texas, chỉ liên lạc nhiều khi đã chuyển về Nam CA thôi, lúc KT đã bị lọc thận hàng chục năm rồi. Lần nào tới cũng thấy KT lọc cọc đẩy xe lăn ra mở cửa, với nụ cười hiền trên môi và cái bắt tay rất thân thiết, chí tình. Trong những lần đó, tôi cố ý nắm tay KT thiệt lâu, lâu hơn thời gian cần thiết của những cái bắt tay bằng hữu.

Nhiều khi KT nói với khuôn mặt vui hơn bình thuờng: ‘Lâu quá không thấy ông tới, lúc nầy cũng chẳng thấy  nhiều tên thường ghé tạt qua nữa.’
Câu nói như một lời than.

Tôi để gói quà nhỏ đâu đó trên bàn bếp, KT không nhìn tới cũng không cám ơn, anh coi đây là chuyện bình thường và đẩy xe lăn ra phòng khách cho dễ nói chuyện.

Chuyện cũng không có gì quan trọng, chỉ là bạn bè ai đó đã tới thăm gần đây hay nhắc tới người nào lâu rồi không thấy. Nói tới những người nầy thì KT hứng khởi lên, nhắc về những dật sử của họ để cả hai cùng cười.

Có lần tôi đề nghị, khi có chị Oanh, vợ KT ở nhà, hay là mình cùng ra tiệm ăn món gì đó cho KT cảm nhận không khí sinh hoạt bên ngòai một chút. Và tôi thiệt sự áy náy cùng cảm động khi thấy chị Oanh vất vã đở chồng lên, nâng chưn chồng vô trong trước khi  đóng cửa xe, rồi quay ra sau cốp cẩn thận xếp xe lăn của chồng... Tôi ngỏ ý phụ một tay thì chị nói cứ để chị lo, lâu ngày quen rồi. Tôi cảm thấy trong câu nói toát ra một sự thương yêu và một sự tận tụy đáng kính trong hoàn cảnh khó khăn phải săn sóc chồng của người phụ nữ VN.

Bà chủ quán Song Long thấy chúng tôi vô thì đon đả chào:

‘Chào họa sĩ Khánh Trường, lâu quá không thấy ông ghé.’

KT chỉ mĩm cười gật đầu, hình như người bịnh kiệm lời, thường chỉ giao tiếp bằng những biểu lộ trên khuôn mặt như nụ cười, ánh mắt...

Bà chủ quán nhắc  nhỏ với tôi.

‘Lúc trước còn nhà văn Mai Thảo, hai ông Mai Thảo và Khánh Trường, sống ở chung cư phía trong’, bà vừa nói vừa chỉ ra phía sau, ‘Thường ghé, họ ngồi trong cái bàn gần cửa sau rất lâu, có khi hết buổi sáng luôn, để trưa lại ăn cơm.’

Phải công nhận bà chủ quán có trí nhớ dai thiệt tình. Có phải đây là yếu tố để quán lôi kéo khách hay không?

KT ăn thiệt ít, vài ba đủa thì anh kêu vợ dặn chủ quán cho ‘to go’.

Đó là bữa ăn nhà hàng lần cuối giữa chúng tôi vì nhiều lần tôi muốn mời mà thôi. Hoặc chị Oanh không có ở nhà hoặc KT nằm bẹp trên giường, chỉ đưa tay ra bắt, nhưng không ngồi dậy hay đương ngồi xe lăn như thường thấy.

Những lần như vậy KT than nho nhỏ:

‘Mới đi lọc thận về, còn mệt quá.’

Trong hoàn cảnh như vậy thì khách tốt hơn là rút sớm để chủ nhơn nằm nghỉ, bỏ ý định mời mọc...

Khánh Trường vẻ cho tôi hai ba bìa sách, bìa cuốn ‘Tung Kiu Nam B tôi ăn ý nhứt và nhiều người khen là họ thích sách nầy một phần vì cái bìa có hình Kiều cầm đờn quá đẹp... Sáu bìa ‘Tung Tam Quc Din Nghĩa’ - bộ tuồng gồm 6 quyển- KT đã chọn ra 6 hình trong phim truyện Tam Quốc của Tàu, rất hợp, cũng rất đẹp và bắt mắt.


Những lần nhờ đó, người nhờ thường chỉ cám ơn xuông! Có lần thấy KT ở nhà một mình, cô đơn tuyệt cùng, tôi đưa KT tờ trăm đô, anh không cầm lấy mà chỉ nói: ‘Thôi ông giữ đi!’, trong cái khoát tay,  ‘Giờ tôi không biết làm gì với tờ giấy đó, cũng không biết để đâu và quên giá trị của nó rồi.’

KT đa tài ai cũng biết, anh viết văn thiệt mau, nhiều tình tiết rất hiện thực, vẻ thì thần sầu, đa chủng, đa cách điệu. Nhưng điều ai cũng phục là anh mở đường làm tờ Hợp Lưu  (HL) trong thời gian mà những cây viết ở hải ngoại và quốc nội còn chưa  tương thông và nhiều ngờ vực nhau do ảnh hưởng chánh trị từ nơi mình đương sống. Anh bị tấn công nhiều, kể cả những người từng là bạn bè lâu năm, tờ báo điêu đứng thời gian đầu, người chủ trương phải viết một truyện dài dung tục –  dùng bút hiệu khác dĩ nhiên - để lấy tiền nuôi tờ báo. Nhờ cái dũng khí của người đứng đầu gió mở đường của KT các cây bút bên hai bờ biển đã hiểu nhau rằng:

-Người viết thiệt sự dầu ở hoàn cảnh nào cũng không bẻ cong ngòi bút để bị chánh trị mua chuộc.

-Hiểu rõ hơn sự suy nghĩ của những cây viết còn ở lại và ở đây vẫn rải rác còn những người tài.

- Biết được ở trong nước đương có những tiếng nói văn chương khác với loại văn chương phải đạo đang bao trùm...

Bó đuốc soi đường đó của HL bây giờ - dầu không nói ra nhưng ai cũng biết- đã được đốt lên lần nữa mấy năm nay ở  hải ngoại như Văn Hc Mi (CA, Hà Nguyên Du), Ngôn Ng (Canada, Luân Hoán) và ở trong nước có một tờ mà người viết bài nầy tạm không nói tên.

Ảnh hưởng của HL là ở chỗ đó, dai dẳng đa dạng...

Bộ HL cho tới giờ vẫn là bộ tạp chí hải ngoại nhiều giá trị cùng đứng trong hàng ngũ những tờ báo văn học đáng giá của nền văn chương hải ngoại như tờ Văn (Mai Thảo- Nguyễn Xuân Hoàng), Văn Hc (Nguyễn Mộng Giác), Khi Hành (Viên Linh).

Giờ thì KT đã về trời. Anh nằm xuống bạn bè thương tiếc vì nhiều lý do, trong đó lý do quan trọng nhứt là KT đã để lại nhiều dấu ấn khi xuống tới trái đất nầy làm người Việt Nam, đã đóng góp cho văn  hóa Việt. Tôi ví KT như cánh nhạn qua đầm, khi bay qua vùng trời văn hóa VN đã để lại cái bóng bằng những tác phẩm của mình trong đó như nhiều người tài khác trước đây. Những Nguyễn Du. Những Hồ Xuân Hương. Những Petrus Ký. Những Nguyễn Đình Chiểu. Những Bà Huyện Thanh Quan. Những Tản Đà xa xưa...

Và gần đây là Bình Nguyên Lộc, là Vũ Anh Khanh, là Phạm Duy, là Nguyễn Đình Toàn, là Nguyễn Mộng Giác, là Nguyễn Tất Nhiên, là Mai Thảo, là Nguyễn Xuân Hoàng, là Tô Thùy Yên, là Đinh Cường, là Huy Tưởng, là Bé Ký, là Nguyên Sa...

Những con hạc bay qua đầm để lại dấu ảnh trong nước đầm kể hoài không hết cho thấy sự mãnh liệt của đời sống văn hóa Việt. Nó sẽ trường tồn tôi chắc chắn như vậy.

Thôi bn ta’ yên nghĩ. Cầu đoạn trường kẻ trước người sau thôi.

Tôi gọi KT là ‘bn ta’ lần cuối. Rồi từ nay sẽ gọi bằng chức danh khác thiệt trang trọng: Họa sĩ Khánh Trường của nền văn hóa VN hải ngoại.
 
Nguyn Văn Sâm (Victorville, CA, Dec 30, 2024)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Phát thanh viên Nhã Lan của kênh truyền hình Hồn Việt TV (Orange County, CA) nói chuyện với nhà văn / nhà thơ Trịnh Y Thư về văn chương và các điều khác...
Lũ con cháu chúng tôi sang thăm cô Nhã chú Từ ở thành phố Malmo, miền Nam Thụy Điển, vào khoảng giữa tháng 10 2024. Có chúng tôi về, cô chú vui lắm và thường cùng chúng tôi ra ngoài dạo phố, ngắm cảnh, ăn uống. Trong một buổi chiều đi uống cà phê, chúng tôi chụp được tấm hình cô chú nắm tay nhau đi dạo trong một công viên thanh bình, khi trời đất vào thu, dưới ánh nắng nghiêng nghiêng của buổi hoàng hôn cuối ngày. Chúng tôi đặt tên tấm hình đó là “Vẫn nắng vàng dù buổi chiều của đời”, là câu đầu tiên trong bài hát Vầng Trăng Xưa, chú Từ sáng tác trong trại giam Hàm Tân vào năm 1985.
Tác phẩm Drei Kameraden (Three Comrades) năm 1936 của văn hào Đức, Erich Maria Remarque (1898-1970) Tâm Nguyễn dịch với tựa đề Chiến Hữu, nhà xuất bản Kinh Thi ấn hành năm 1972, gồm 28 chương dày bảy trăm trang. Đệ Nhất Thế Chiến, Remarque ở tuổi 19, bị động viên vào Quân Đội Hoàng Gia Đức, thuyên chuyển về Mặt Trận Miền Tây (The Western Front), bị thương vì các mảnh đạn bắn vào chân trái, tay phải và vào cổ, nên được tản thương về bệnh viện, điều trị cho đến khi chiến tranh kết thúc rồi được giải ngũ khỏi Quân Đội Đức. Sau khi chiến tranh chấm dứt Remarque bị ám ảnh bởi các cảnh tàn phá của chiến tranh, thân phận con người, người lính trong và sau giai đoạn bi thương của lịch sử.
Nguyễn Du là tác giả của “Truyện Kiều” và nhà văn người Đức Johann Wolfgang von Goethe là tác giả kịch thơ “Faust”. Nguyễn Du được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào" và được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới” vào năm 2013 cùng 107 danh nhân khác. Nếu người Việt tự hào về Nguyễn Du thì người Đức cũng rất tự hào về nhà văn lớn của họ là Goethe. Theo Viện Nghiên cứu xã hội và phân tích thống kê Đức (Forsa), Geothe được xếp đứng hàng đầu trong danh sách „Những người Đức vĩ đại nhất mọi thời đại“ [1]. Sau đó mới đến vị thủ tướng đầu tiên của Cộng Hòa Liên Bang Đức là Konrad Adenauer (1876-1967) đứng hạng nhì và đứng hạng thứ ba lại là nhà khoa học gia Albert Einstein (1879-1955), cha đẻ của Thuyết tương đối.
Với tài năng hội họa, văn, thơ, và nhất là tấm lòng và ý chí bền bỉ với văn học nghệ thuật, Khánh Trường đã chinh phục một số lượng độc giả và giới thưởng ngoạn nghệ thuật lớn, từ hải ngoại về đến trong nước, từ nhiều thập niên qua, và có lẽ Ông sẽ mãi được nhớ đến trong văn sử Việt là người khai phóng một nền văn học hậu chiến ở hải ngoại và trong nước qua tờ báo văn học Hợp Lưu. Sau ba cơn tai biến Ông đã phải mang nhiều bệnh tật, nhưng sự ra đi của ông vào cuối năm 29 tháng 12, 2024 vừa qua vẫn gây bàng hoàng đối với những người thân yêu và mến mộ ông. Nỗi niềm thương tiếc này được biểu hiện bằng đôi lời chia biệt với ông và gia đình từ khắp nơi. Việt Báo trích đăng lại.
Như anh có lần tâm sự, thủa 13, anh đã bỏ quê nhà Quảng Nam, lên Đà Lạt, sống đời lang bạt, ăn bờ ngủ bụi, thậm chí “biết tình yêu gái điếm” dù còn non choẹt. Rồi anh xuống Sài Gòn, không muốn tiếp tục làm du đãng, anh đăng lính, dù chưa đủ tuổi. Có sao đâu, chiến tranh đang lên cao điểm mà, quân đội cần lính, nhất là lính Dù, những người lỳ lợm, can đảm, tự nguyện. Những năm chiến trận, đúng châm ngôn “Nhẩy Dù cố gắng”, anh sống trọn với đồng đội, với màu cờ sắc áo. Bị thương nhiều lần, anh buộc phải giải ngũ. Đời sống dân sự chưa được bao lâu thì “xẩy đàn tan nghé”, ngày 30 Tháng Tư 75, anh bị “bên thắng cuộc” liệt vào hàng ngũ “bên thua cuộc”. Vì là cấp hạ sĩ quan, anh không chịu chung số phận như hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức, bị đầy đọa nhiều năm tháng trong các trại tù mà chế độ mới gọi bằng mỹ từ “cải tạo”. Nhưng anh vẫn bị nghi kỵ, bị phân biệt đối xử ngay chính trên quê hương mình.
Chúng tôi quen nhau bắt đầu bằng một… thùng sách...
Giữa mình và Khánh Trường có chút tình văn nghệ tuy thỉnh thoảng mới gặp nhau. Nay Khánh Trường vừa ra đi xin đăng lại một bài viết về Trăng Thiền cách đây cũng đã mươi năm nhân Khánh Trường triển lãm một loạt tranh mới chủ đề là Đáo Bỉ Ngạn và có gởi cho Nguyễn hình chụp một số bức để đưa lên Phố Văn. Xin mời bạn đọc theo dõi bài viết.
Thật ra, trước 1975, tôi cũng đã đọc nhiều sách, nhiều tạp san văn học ở Sài Gòn, (hay tỉnh lẻ), tôi chưa đọc đến tên Khánh trường, biết tên Khánh Trường. Tên đó (hay bút danh đó) hoàn toàn xa lạ đối với tôi.
Bạn hãy giữ lòng cho thật vui để ra đi. Trang sách cuối của Hợp Lưu bây giờ đã khép lại. Tay của bạn đã thả rơi ngòi bút và cọ màu. Bạn đã nằm xuống sau một đời lặn lội. Hãy gối đầu lên những kệ sách ký ức. Đã tới lúc bạn hãy buông xả hết, để tự thấy đời mình trôi theo dòng sông chữ nghĩa, nơi đã chép xuống những gì đẹp nhất của thế hệ chúng ta. Bạn hãy giữ lòng cho thật vui để ra đi. Cuộc đời luôn luôn là những bước ra đi. Bạn không có gì để nuối tiếc trong đời này. Bạn đã tự vắt kiệt máu trong tim ra để làm sơn cho tranh vẽ và để làm mực cho những trang báo. Nơi đó là ước mơ của yêu thương và hòa giải. Nơi đó là sự ngây thơ nghệ sĩ mà chúng ta đã đem tặng cho đời.
Thông báo thay đổi giao diện trang nhà mới của Thư Viện Hoa Sen
Tin tức các cơ sở hội đoàn thông báo cộng đồng
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.