Hôm nay,  

Vàng Rơi Nên Tiếc, Tuồng Hát Bội Vô Danh Của Miền Nam: Kim Long Xích Phượng

11/10/202419:05:00(Xem: 2993)
blank

Hình trên: Giáo sư Nguyễn Văn Sâm (phải) và phu nhân (nhà văn Ngọc Ánh) đứng trong Viện Việt Học (Quận Cam, California) hôm Thứ Sáu 11/10/2024. GS Nguyễn Văn Sâm sau khi hồi phục từ bệnh ngặt, đã cho biết vừa dịch xong một tác phẩm cổ, tuồng Kim Long Xích Phượng, phổ biến như sau.
.

Vàng rơi nên tiếc,
tuồng hát bội vô danh của Miền Nam:

KIM LONG XÍCH PHƯỢNG
 

GS  Nguyễn Văn Sâm

   

 

Thế kỷ 19 có một sự cộng tác đặc biệt của một số người Minh Hương ở Chợ Lớn và các nhà khắc ván ở vùng Phật Trấn (Quảng Đông, Trung Quốc) để thực hiện khắc ván,  in và phát hành sâu rộng những tác phẩm Việt Nam viết bằng chữ Nôm. Số tác phẩm này nhiều và quan trọng vì thời gian hoạt động của nhà khắc ván, nhà phát hành nói trên gần như kéo dài cả trăm năm. Nếu làm một việc kiểm kê những tác phẩm ở trong trường hợp nầy còn sót lại cho đến ngày nay ta thật ngạc nhiên mà thấy rằng đó là một gia tài văn hóa quý báu của người Việt. Quý giá nhưng từ lâu chìm trong lãng quên vì ta không biết hay chưa biết hết.
  

Lý do cũng dễ hiểu thôi, vì thời gian binh lửa kéo dài, vì người cựu học trong Nam không nhiều, vì các tờ báo Nam Phong, Đông Dương, Tri Tân được thiết lập ở Bắc, vì các hội Trí Tri, Nghiên Cứu Đông Dương, Đô Thành Hiếu Cổ đều có trụ sở ở miền ngoài nên các cơ quan nầy không có phương tiện để thấy để biết mà giới thiệu những tác phẩm quý giá đó.
  

Lý do gì đi nữa thì các tác phẩm đó gần như mai một và chúng ta biết thật ít về chúng. Nhiều trường hợp nghe tên tác phẩm mà rất ít trường hợp thấy chính tác phẩm. Tôi gần đây có cơ may thấy được một vài quyển do nguồn tài liệu ở Pháp và được Giáo Sư Nguyễn Khắc Kham khi còn mạnh khỏe cho sao lại nhiều quyển trong tủ sách riêng của Thầy nên thấy mình có bổn phận giới thiệu với học giới những gì tôi có thể làm được.

  

Thường thì tác phẩm cần được phiên âm cẩn thận trước khi suy nghĩ về những vấn đề đặt ra trong đó. Sự phiên âm rất cần thiết vì sẽ có dịp đem tác phẩm tới mắt đa số quần chúng Việt Nam hay học giới nghiên cứu Việt Nam mà có thể đọc được quốc ngữ. Trong khi phiên âm, phiên giả học được nhiều điều bổ ích liên quan đến chữ nôm và tiếng Việt. Phiên âm cũng là cách đọc thật kỹ tác phẩm, cân nhắc từng chữ dùng của người xưa, gặp chữ lạ lại tự hỏi đọc thế nào cho hợp lý, để tìm tòi về nghĩa. Do đó sự phiên âm của chúng tôi cũng là sự học hỏi cần thiết về những vấn đề liên quan đến chữ Nôm, đến quốc văn. Sự đọc sai, có thể có, tuy rằng chúng tôi đã cố gắng đến tối đa. Sai vì sức học chưa tới, nghiên cứu chưa đủ, nhưng nghĩ rằng ai cũng có thể sai, tôi mạnh dạn tiến vào công cuộc nhàm chán này. Sự đọc tạo nên tranh biện với những nhà Nôm học hay ngữ học càng có nhiều khả năng hơn. Chuyện đó phải xảy ra thôi, nhưng tôi đã cân nhắc thật kỹ mỗi khi đưa ra chữ mình phiên âm, không bao giờ để sự cẩu thả, qua mắt người hay sự cầu kỳ thúc đẩy. Mong phần lớn chữ mình phiên âm được công nhận và những tranh biện chỉ thực sự xảy ra vì chân lý cần được làm sáng tỏ đối với những chữ quá mắc mà thôi.
  

Tuồng Kim Long Xích Phượng được đọc trong tinh thần đó.   

  

Đây là một tuồng như kiểu Tuồng San Hậu, nghĩa là không dựa trên truyện Tàu mà do người đặt mô phỏng chỗ nầy một chút, chỗ kia một chút để viết nên. Tuồng gồm ba hồi, trong mỗi hồi có nhiều lớp, không nhứt thiết phải là một cảnh. Bản Nôm không chia hồi cảnh, tôi tạm chia để người đọc dễ dàng theo dõi câu chuyện.

 

 

Hồi Một: Thâm Cung Bí Sử (mười Lớp)

  

Lớp 1: Thời thái bình, Tống Minh Quân Lãnh San du ngoạn.

Lớp 2: Gặp Minh Châu, phải lòng, phong Thứ Hậu.

Lớp 3: Minh Châu lên đường vào cung.

Lớp 4: Nhận búa thần, Châu Võ Sĩ chờ thời giúp nước.

Lớp 5: Thứ Hậu mộng thấy hoài thai Kim Long, Xích Phượng.

Lớp 6: Ôm đố kỵ, Chánh Cung bày mưu độc.

Lớp 7: Chốn Bàn Khê, Bửu Lâm Sanh cùng Thị Lang kết bạn.

Lớp 8: Câu sông Vị, Thọ Lão Ông vớt đươc hai cháu Kim Long, Xích Phượng.

Lớp 9: Thứ Hậu nguyền cùng hoa cỏ và bầu vú sữa.

Lớp 10: Tiên Ông hạ trần truyền văn võ cho Hoàng Tử.

 

   Hồi Hai: Long Phượng Thành Nhơn

 (tám Lớp)

 

Lớp 11: Kim Long lên đường tầm sư học đạo.

Lớp 12: Chốn núi rừng, Võ Sĩ, Lâm Sanh kết nghĩa. Lớp 13: Minh Quân chứng kiến điềm bế nhị tu hoa.

Lớp 14: Thành nhơn chi mỹ, Kim Long Xích Phượng lên đường tìm cha mẹ.

Lớp 15: Trình áo thơ, Kim Long Xích Phượng gặp người thân.

Lớp 16: Kim Long Xích Phượng trùng phùng cha mẹ.

Lớp 17: Thọ Lão Ông vui thú điền viên.

Lớp 18: Mộng cướp ngôi, Lân Hầu thông đồng cùng Phiên quốc.

 

Hồi Ba: Chính Biến và Binh Biến

(mười Lớp)

 

Lớp 19: Thọ Lão Ông vui cảnh đoàn viên.

Lớp 20: Nối kết với Lân Hầu, Phiên quân khuấy loạn biên thùy.

Lớp 21: Nơi biên địa Ngự Đệ bị Phiên binh vây khổn.

Lớp 22: Chốn ải đầu, Lâm Sanh cứu Tử Hoàng lần 1.

Lớp 23: Minh quân thăng hà, Kỳ Hương phò Thứ Hậu đào sanh. Lớp 24: Chốn ải đầu, Lâm Sanh cứu Tử Hoàng lần 2.

Lớp 25: Nơi biên thùy, Châu Võ Sĩ phò nguy Ngự Đệ.

Lớp 26: Tất cả đoàn viên, phất cờ dựng nghiệp.

Lớp 27: Phe Tử Hoàng đại định, nhóm Lân Hầu tiêu vong. Lớp 28: Châu Võ Sĩ lên đường trấn nhậm ải xa.

 
***

 

 

Bạn đọc lướt qua 28 lớp  nầy sẽ nắm được cốt truyện, nghĩa là biết được diễn tiến của tuồng. Cũng như hầu hết các tuồng hát bội khác, câu chuyện xoay chung quanh những biến động trong một vương triều.

Sự kiện bắt đầu từ một cô gái trẻ được vị vua già đem về làm Thứ Hậu. Nàng sanh ra hai con nhưng bị Chánh Hậu ghen ghét tráo cho là Thứ Hậu đã sanh ra hai con thú nhỏ và hai đứa trẻ đã bị phe của bà bí mật thả trôi sông. Hai đứa trẻ đó may mắn thay được chính ông ngoại mình vớt được khi đương trôi trên dòng nước. Ông nuôi dưỡng và dạy võ thuật cho hai cháu để sau đó khi thành nhơn chi mỹ thì về triều chiến đấu lấy lại vương quyền trước đó do bà Chánh Hậu cùng với thân tộc mình chiếm ngôi vua.
 

Các tình tiết thì tương tợ như các tình tiết trong các truyện Tàu nhan nhản ở Miền Nam Kỳ Lục Tỉnh cuối thế kỷ 18.

Dĩ nhiên là tuồng đề cao lòng trung hiếu tiết nghĩa như các sách báo khác thời đó, những yếu tố góp phần cho sự định hình khí chất của người dân sống trên vùng châu thổ sông Cữu Long.

 

 

Về văn từ thì tuồng nầy không khó hiểu vì chữ dùng mắc mỏ và quá nhiều nhóm cừ Hán Việt như tuồng Hàm Hòa, nhưng cũng không quá bình dân như tuồng Trương Ngáo,  do đó chúng tôi đã có những chú thích khi cần thiết  để giúp những thế hệ trẻ sống xa lâu về sau thời kỳ thânh mậu của tuồng có thể hiểu được những gì mà tác giả muốn chuyên chở.
  

Trong việc phiên âm tôi có nhờ bạn mình là Giáo sư Nguyễn Hiền Tâm dó lại và chỉnh sửa những từ đã đươc đọc nhưng chưa chỉnh... Khi bản thảo trên đường hoàn thành thì cũng đã được dò lại lần chót của một học giả trẻ là ông Nguyễn Anh Tú. Tôi cho rằng một tác phẩm Nôm được chuyển sang Quốc ngữ thì cần sự góp tay của càng nhiều người càng tốt nhưng mọi sai lầm thì người khởi xướng hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Nhân đây xin hai vị trên nhận lời cám ơn chơn thành của tôi.

 

Nguyễn văn Sâm,  bắt đầu phiên âm ở Port Arthur, Texas 1995.

Viết lời tựa nầy ở thành phố Victorville, CA tháng 03, năm 2020.

  

  

              TUỒNG KIM LONG XÍCH PHƯỢNG

 

HỒI 1: THÂM CUNG BÍ SỬ

 

Lớp 1:

Thời thái bình, Tống Minh Quân lãnh sơn du ngoạn.

 

 

[Thị Lang:]1 [1b‒Bảo Hoa Các‒寶華閣]

Rồng chầu Càn ngũ, phượng ứng Ly tam.

Trên ra nhơn vững đặt tám phương, dưới tắm đức gội nhuần trăm họ.

Giúp Tống trào minh chúa, quyền Binh Bộ Thị Lang.

Trong trào chánh sự kỷ cang, ngoài lê thứ ngợi danh trung nghĩa.

Lại nói:

Tưởng nghiệp chúa ngày ngày hằng áy náy, lo Tống trào bữa bữa luống xốn xang.

Cớ chi trên muộn trổ cành vàng, khiến nỗi dưới chẳng an gối ngọc.

Nay tuy đã vững cầm chín vạc, sau không ai nối nghiệp ba giềng.

E khôn thấu lẽ máy thiêng2, khó nỗi tường trong ý nhiệm.

Một mình khó biện, hai lẽ khôn toan.

Chỉnh mạo nhập cung loan, đặng ứng hầu phượng các.

Vương:

Thay đời trị nước, hiệu Tống Minh Quân.

Ngoài đặt vững giạu3 thân, trong lại an gối bính. Nhơn khi võ tạnh, vừa thuở phong hòa.

Nghe Côn Cương vẻ lạ trăm hoa, nơi Trang Lãnh thú mầu tám tiết.

Binh Bộ!

Truyền Binh Bộ chỉnh tu phủ việt, quản tinh binh hộ giá [2a‒Thông Kiên‒通堅] thừa lương.

Ngự Đệ giữ đền vàng, bá quan lui phủ tía.

Thị Lang:

Truyền đội ngũ chỉnh tu nhuệ khí, rao tam quân kiểm điểm mã yên.

Đặng hộ giá thánh hoàng, tựu Côn Sơn nhàn lạc.

Vương:

Hảo a!

Trải dặm cù, qua đỉnh hạc, dương tán Phượng, dẩy xe loan.

Tôi chúa hiệp một đoàn, chỉ lãnh trang ngàn dặm.

Hát nam:

Trực chỉ lãnh trang ngàn dặm, Mây ken trời dệt gấm màu tươi. Trăm hoa hớn hở đua cười,

Thông reo lạc ngựa đá ngồi hình nghê.
 

Tán:

Nhựt nguyệt phong vân cựu, giang sơn vũ trụ tân.

 

 

Dã điểu khinh phiêu vũ, kỳ hoa khí vị xuân.

Hát nam:

Đòi nơi vẻ lạ phong quang,

Địch ve cầm trỗi sánh hàng Tiêu Tương.

Thị Lang:

Lửa ô ngời chói lọi đông phương, hơi nắng hạ nồng nà hướng Chấn.

Xin thánh hoàng ngự tiến, đặng thần hạ giục yên. Tới Trang Lãnh nghỉ chơn, sẽ kiếm nơi tạm trú.

 

 

Lớp 2:

Gặp Minh Châu, phải lòng, phong Thứ Hậu.

 

Thọ [2b] Lão:

Bạch Lãnh Sơn quê ngụ, chữ đặt Thọ Lão ông.

Vợ đà sớm vắng chín sông, lão hỡi còn nương một gậy.

Mất ba thảo thiệt sanh phận gái, lỗi mười ơn chẳng đặng chút trai.

Tư dung hình liễu xương mai, nhan sắc mắt sao da tuyết. Tuổi ba sáu còn gài cửa nguyệt, duyên mười hai chưa bén hương trời.

Tủi phận già tóc hạc điểm da mồi, cám tình trẻ chơn le hằng lẫy đẫy.

Minh Châu:

Ơn cha mẹ ơn tày phú tái, nghĩa làm con nghĩa báo sanh thành.

Con gian nan con hỡi tuổi xanh, cha lận đận4 cha đà đầu bạc.

 

 

Để mặc trẻ sớm nhúm rau chiều mớ ốc, vui mình già dạo non thánh tắm ao tiên.

Cũng có ngày thương hải biến tang điền, cũng có thuở tang điền vi thương hải.

Thọ Lão5:

Con trẻ lời phân giải, già lớn đặng xét suy.

Khóc măng nằm giá trước khác chi, trộm quít ôm mồ nay mới hãn.

Sấu địa khai [3a] hoa vãn, bần cùng phát phước trì.

Con đành lòng hái trái dưng lê, cha toại chí non thông đỉnh quế.

Quân nhơn:

Lão phu mau tiếp lễ, ra mừng lịnh Minh Quân.

Nhơn dạo chơi vừa thuở nắng nung, nên vào ẩn tạm cơn gió mát.

Thọ Lão:

Đình tiền phủ phục, đường hạ khấu đầu.

Thánh hoàng tựu giải lao, ngu phu cam thất lễ.

Vương:

Xem lão phu niên kỷ, chừng tác đã tòng tâm.

Như hà thê tử đắc lưỡng thâm, thử ý gia tề giai tứ cố?

Thọ Lão:

Tạn mặt rồng dám tỏ, chút lòng kiến xin bày.

Chẵn mười thu vợ đã chơi mây, dư sáu kỷ con hằng chải gió.

Hôm mai nơi lều cỏ, cui cút chốn cửa gai.

Tên Minh Châu tác dưới đôi mươi, phận nhi nữ tuổi vừa ba sáu.

Tháng ngày nương náu, khuya sớm cút cui.

 

 

Ngu phu dám cạn lời, tâu nhơn quân tỏ dạ.

Vương:

Sách có chữ vô [3b] nam dụng nữ, thế lời rằng gái cũng như trai.

Miễn cho vẹn vẻ sắc tài, thời cũng đặng hưởng nhờ quyền quý.

Thị Lang:

Lão trượng sao lẫn ý, già lớn đã khuất tình.

Lời lão tâu sao hỡi giấu hình, ẩn mặt trẻ chẳng cho ra mắt.

Thọ Lão:

Thượng quan đừng quở phạt, để mặc lão liệu toan.

Lại nói:

Con!

Cha lách mình tới trước hàng loan, con nối gót cho gần mắt phượng.

Lại nói:

Thú quê tôi thường dụng, non núi bữa hằng quen.

Dưng ba dĩa khoai lang, cùng một ve trà cúc.

Miễn chấp già bất pháp, vật tương kiến Tống trào.

Đỡ cơn tướng hổ vi lao, ngõ thuở mình rồng giải khát.

Minh Châu:

Dưới thềm rêu bồ bặc, bên giá ngự làn đan.

Cúi trông đức chí tôn, đoái phận hèn nhi nữ.

Vương:

Xưa thánh đạt kim sanh Lệ Thủy, nay hãn tường ngọc xuất Côn Sơn.

Mắt sao mày nguyệt vẻ rỡ [4a] ràng, má phấn môi son giồi đẹp đẽ.

Có chữ lương duyên do túc đế, định Minh Châu Thứ Hậu quyền phong.

 

Truyền bá quan phản mã hồi cung, kỳ tam nhựt loan xa nghinh giá.

Thọ Lão, Minh Châu:

Xét phận thú quê sơn dã, lạm nhờ trướng phượng màn loan.

Muôn trông đức Thánh hoàng, y kỳ lai tiếp giá.

Thị Lang:

Lịnh truyền võ bá, kiểm điểm mã yên.

Hộ giá lại kim chương, dẩy xe hồi công phủ.

 

 

Lớp 3:

Minh Châu lên đường vào cung

 

Thọ Lão:

Chữ cấu ác ác ngộ, câu tích thiện thiện hoàn,

 Sách đặt hãn nhằm, thế rằng vốn quả.

Lại nói:

Ấu nhi đừng chạnh dạ, mà lão phụ động lòng.

Dựa hơi rồng rạng tiết tông môn, kề gối phượng thơm danh lão phụ.

Minh Châu:

Tủi là tủi chia lìa một thuở, lo là lo hiu quạnh ngàn ngày. Nay ấu nhi an phận xanh mày, thương lão phụ thân đơn bạc tóc.

Khuya sớm lấy ai săn sóc, hôm mai không [4b] kẻ dưỡng nuôi.

Hổ cùng vật cùng người, ẻ khôn lui khôn tới.

Thọ Lão:

Con trẻ chưa túc lý, cha già lọ chánh kinh.

Tam cương chép sử xanh, tứ đức ghi thẻ bạc.

 

Trai giữ quân thần làm trước, cương phụ tử ấy sau.

Gái thời cương phu phụ làm đầu, câu hiếu phụ cũng không đặng trước.

Con còn biết một, cha rõ đặng mười.

Miễn cho con dựa bén hương trời, mựa lo lão ngồi kề mặt đất.

Khá điểm trang nhan sắc, mau y phục sửa sang.

Đã tới ngày minh đế nghinh hôn, chử lời hẹn lão lo tiếp giá.

Quân báo:

Dám trình nơi đường hạ, có sứ tựu nghinh hôn.

Tin gia lão đặng tường, còn dừng nơi môn ngoại.

Thọ Lão6:

Nghe tin truyền hơ hải, miễn chấp lão khiên trì.

Xin thỉnh tựu an nghi, sẽ bày lời tiếp giá.

Sứ thần:

Nay thánh hoàng sắc hạ, rước phụ tử hồi trào.

Sẽ ân tứ gia phong, đặng [5a] hưởng nhờ lộc nước.

Dầu gia lão chẳng an quyền tước, lãnh kim ngân trăm nén vàng ròng.

Ngõ đền nghĩa vun trồng, phỉ đáp tình dưỡng lão.

Thọ Lão:

Sứ thần có hồi trào dự cáo, rằng lão phu lạm bái hoàng ân.

Như sắc phong thời lão xin vưng7, còn vàng bạc thời già xin lãnh.

Ơn trên lượng thánh, vạn vọng chí tôn.

 

Biển dầu cạn non dầu mòn, nghĩa dễ phai tình dễ lạt.

Sứ thần:

Rợp che tán Phượng, áp bố hàng loan.

Hiệp vầy tôi chúa một đoàn, ngõ đặng hồi trào yết thánh.

Minh Châu:

Ơn cúc dục ghi lòng khắn khắn, nghĩa sanh thành tạc dạ khăng khăng.

Một bái cha ở lại Lãnh Trang, cho con trẻ ngàn trùng kinh địa.

Hát nam:

Con trẻ ngàn trùng kinh địa,

Cúi đầu từ giọt lệ tuôn rơi.

Riêng8 than phận gái mười hai,

Mất trong ba thảo lỗi ngoài mười ơn. Cho hay là nỗi cơ doan,

Vinh hoa phận trẻ, [5b] tân toan thân già.

Côn cương bặt dấu dặm hoa,

Xa xa lố thấy chương tòa trung đô.

 

.

GHI CHÚ:
 
1. Tuồng hát bội nào khi mở màn cũng có 1. mấy câu giáo đầu chúc tụng vua chúa bằng cách nói rằng đời nầy thái bình, xong chúc tụng rồi tới 2. lời xưng của nhân vật giáo đầu. Lấy thí dụ bằng tuồng Phượng Nghi ĐìnhGiáo đầu: Vườn Hiên lân dấu trổ, sân Vũ Phượng trình tường, Trên cửu trùng vững đặt âu vàng, Dưới trăm họ vỗ an con đỏ. Nhân vật giáo đầu: Hán gia phò bửu tộ, Vương Doãn biểu tiện danh, Trải mật nghĩa xây thành, Đúc gan trung giúp nước.
2. BN viết linh 灵, không hạp vận, chúng tôi cho là chữ thiêng 𤍌 khắc lộn.

3. Giạu 𥴙: hàng rào.

4. BN viết   , chúng tôi cho là chữ hảo 好 khắc lầm.

5. BN viết  , chúng tôi cho là chữ đận 弹 khắc lầm.
6. BN viết Thọ Ông, chúng tôi nhứt loạt ghi thành Thọ Lão, vì đều chỉ một người.
7. Chỉ nhận chức, không nhận tài vật.

  













Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.