Hôm nay,  

García Márquez và 30 000 điếu thuốc

07/10/202200:00:00(Xem: 3734)

Marquez
 
Trong quyển tiểu sử Gabriel García Márquez: A Life, Gerald Martin kể rằng García Márquez viết Trăm năm cô đơn chỉ trong vòng một năm, từ tháng 7 năm 1965 cho đến tháng 7 năm 1966, dù ông luôn nói rằng ông mất đến 18 tháng, hoặc có khi là 18 năm. “Trong một tia cảm hứng chớp nhoáng, ông đã nhận ra rằng thay vì viết một cuốn sách về thời thơ ấu của mình, ông nên viết một quyển sách về những kỷ niệm thời thơ ấu của mình. Thay vì một cuốn sách về hiện thực, nó nên là một cuốn sách về sự biểu thị của hiện thực […] Thay vì một cuốn sách về Aracataca và con người ở đó, nó sẽ là một quyển sách được thuật lại qua thế giới quan của họ.”….

Khi chỉ mới viết được 10 trang, ông đã mơ hồ cảm thấy điều kỳ diệu sẽ không dừng lại ở đây, và quyển tiểu thuyết ông sắp viết sẽ là một tiểu thuyết lớn. (2)

Trước đây thay vì ông chỉ viết một ngày một đoạn, bấy giờ ông viết một ngày một vài trang. Khoảng hơn một tháng sau García Márquez sớm phát hiện ra rằng ông cần một sự cam kết hoàn toàn và quyết định bỏ hết những việc khác, kể cả công việc của một nhân viên quèn trong một công ty quảng cáo. Đây là một canh bạc phi thường đối với một người đàn ông có gia đình như García Márquez.

Sau này ông nhớ lại, ngay từ những giây phút đầu, rất lâu trước khi quyển sách được xuất bản, cuốn sách đã tạo ra một ma lực đối với tất cả những ai tiếp xúc với nó theo một cách nào đó: bạn bè, thư ký, v.v., thậm chí những người như người bán thịt hoặc chủ nhà của ông, những người đang đợi ông viết xong để ông có thể trả nợ cho họ. Ông kể: “Chúng tôi nợ chủ nhà tám tháng tiền thuê nhà. Khi chúng tôi chỉ còn nợ ba tháng, Mercedes [vợ ông ] gọi cho chủ nhà và nói, ‘Này, chúng tôi sẽ không trả cho cô trong ba tháng này, kể cả sáu tháng tới.’ Đầu tiên, cô ấy hỏi tôi: ‘Vậy ông nghĩ khi nào thì ông sẽ viết xong? ‘và tôi nói khoảng năm tháng nữa. ‘được rồi, tôi sẽ đợi đến tháng 9.’ Đến tháng 9, ông đã trả hết nợ.”

Một trong nhiều người chờ đợi García Márquez viết xong là Pera ”(Esperanza) Araiza, một nhân viên đánh máy và cũng là người đã đánh máy cho những tiểu thuyết của Carlos Fuentes. Cứ vài ngày, García Márquez lại đưa cho Pera một đoạn khác của cuốn tiểu thuyết, do ông đánh máy nhưng được sửa lại rất nhiều bằng tay, và Pera sẽ sửa lại cho rõ ràng. Mãi sau này, Pera mới thú nhận rằng cứ mỗi cuối tuần cô lại mời bạn bè của mình đến để đọc cho họ nghe chương mới nhất.

Ngoài ra, ông còn có những những người bạn thân thiết ủng hộ ông như Alvaro Mutis và Carmen, Jomí García Ascot và María Luisa; trong suốt một năm họ đã trở thành những nhân chứng đặc biệt và đã theo dõi việc xây dựng một trong những công trình vĩ đại của văn học phương Tây. Đáng kể nhất là María Luisa, người bạn tâm giao thân thiết nhất của ông. Sau này, ông thú nhận là nhiều lần bị choáng váng bởi cái nhìn sâu sắc của cô và đã dùng một số nhận định của cô trong cuốn sách. Ông gọi cho cô bất cứ lúc nào trong ngày để đọc chương mới nhất vừa viết xong.

Nửa năm sau (1966), quyển sách ngày càng dày lên, nhưng tiền dành dụm đã hết, García Márquez bắt đầu cầm chiếc xe Opel trắng duy nhất của mình. Ông còn định cầm luôn cái điện thoại, không chỉ để có tiền mà còn để khỏi mất thời giờ buôn chuyện với bạn bè. Khi tiền cầm xe cũng hết, vợ ông cầm luôn cả Tivi, tủ lạnh, radio, nữ trang, kể cả máy sấy tóc… Nhưng ông vẫn giữ lại chiếc máy hát đĩa. Ông không thể viết mà không có nhạc bên tai và cũng không thế sống thiếu âm nhạc. Bartók, những bài Preludes của Debussy và Hard Day’s Night của Beatles là những bài ông thường nghe khi viết ở thời điểm ấy.


Đoạn khiến tôi cảm động nhất khi đọc chương này là: ngày tồi tệ nhất của García Márquez trong toàn bộ thời gian viết quyển tiểu thuyết là sau khi ông viết chương 13, về cái chết của đại tá Aureliano Buendía, có thể xem là nhân vật thú vị và quan trọng nhất trong Trăm năm cô đơn. “Như nhiều tiểu thuyết gia khác, trải nghiệm việc mất đi nhân vật chính của mình cũng giống như một sự mất mát cá nhân, thậm chí có thể là một vụ giết người. Câu chuyện về cái chết được đầu tư bằng những ký ức tuổi thơ cay đắng nhất của García Márquez và mặc dù các nhà phê bình không nhận ra điều đó, nhưng ông đã đặt mình vào nhân vật có vẻ như lãnh đạm này hơn bất kỳ nhân vật nào khác trong tiểu thuyết của ông […] Hai giờ sáng, sau khi “hành động xong”, ông đi vào phòng ngủ, nơi Mercedes đang ngủ say, nằm xuống và khóc suốt hai tiếng đồng hồ. […] Khi giết đi nhân vật trung tâm của mình, ông phải đối diện không chỉ cái chết của chính mình và phần kết thúc của cuốn tiểu thuyết này mà còn là phần kết thúc của một trải nghiệm hưng phấn độc nhất – đúng hơn, là kết thúc của cả một thời đại của cuộc đời ông và của con người ông đã từng là, và kết thúc của một mối quan hệ không thể diễn tả được với người quan trọng nhất trong cuộc đời mình: ông ngoại của ông (giờ đã mất đi vĩnh viễn vì văn học đã không thể hồi sinh được) ”

García Márquez viết xong 1300 trang bản thảo và cuối cũng gửi 490 trang cho Porrúa, nhà biên tập của nhà xuất bản Editorial Sudamericana ở Buenos Aires: “Tôi đã có một cuốn tiểu thuyết hoặc chỉ là một kí lô giấy, tôi vẫn chưa biết chắc nó là cái gì”, ông nhớ lại. Ông ra bưu điện cùng với vợ. Nhân viên bưu điện cho giá: 82 peso. Ông nhìn vợ lục tìm tiền trong túi, họ chỉ có 50 peso và chỉ có thể gửi được một nửa quyển sách. “García Márquez bắt người đàn ông đứng sau quầy lấy từng tờ bản thảo ra như từng lát thịt xông khói cho đến khi đủ 50 peso […] Về nhà, họ cầm máy sưởi, máy sấy tóc và máy làm thức ăn lỏng cho trẻ em, quay lại bưu điện và gửi đợt thứ hai. Khi ra khỏi bưu điện, Mercedes dừng lại và quay sang chồng: “Này, Gabo, tất cả những gì chúng ta cần bây giờ là cuốn sách không hay ho gì cả.”

Câu nói vừa dí dỏm vừa có chút gì đó ngậm ngùi kết thúc chương viết về Trăm Năm Cô Đơn trong quyển sách của Martin. Thế mới thấy, sự thành công của một nhà văn, đôi lúc không chỉ nằm ở tài năng, sự may mắn, mà còn ở niềm tin mãnh liệt vào bản thân, và rất nhiều khi, sự tin tưởng và hy sinh của người thân và bạn bè bên cạnh.
 
Phan Quỳnh Trâm tổng hợp, lược dịch và chú thích, từ Martin, Gerald, Gabriel García Márquez: A Life, Vintage, 2010.
 
(1) Trong sách, có một đoạn là García Marquez viết 1300 trang sách, nợ 120 000 peso (ông lo là sẽ không bao giờ trả hết nợ) và hút hết 30 000 điếu thuốc. Tôi thấy chi tiết này thú vị nên dùng nó làm nhan đề; nó có thể vừa không, vừa có liên quan cách nào đó đến nội dung bài viết.

(2) Ngay từ thời thơ ấu, García Marquez đã có khả năng thấu thị, như nhân vật Aureliano Buendía trong Trăm năm cô đơn.

(3) Trong sách, Martin dùng thành ngữ “the deed was done”, tham chiếu đến lời nói của Macbeth với vợ, sau khi giết Duncan: “I have done the deed. Didst thou not her a noise?
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
... Nếu thế thì mỗi bài thơ là một sự cách tân, mỗi thi sĩ là một người làm mới sự vật. Có những điều chỉ ngôn ngữ thi ca mới nói được, chỉ thi ca mới có cái “thần” giúp chúng ta thấu thị tận đáy sâu của bản ngã. Người làm thơ là người nắm trong tay quyền năng “soi sáng” sự vật, quyền năng cho sự vật một đời sống mới, quyền năng “đi vào linh hồn của sự vật[1],” và không ai có thể tước đoạt quyền năng đó từ tay hắn...
Ngày nay nhân loại có quá nhiều thú vui không kể xiết. Người ta tìm kiếm, ngụp lặn trong thú vui và cho đó là hạnh phúc. Nhưng này bạn ơi, Thú vui không phải là hạnh phúc, Mà nhiều khi nó là nguồn gốc của khổ đau. Niềm vui lớn nhất của nhân loại ngày hôm nay.
Cuộc Thi Viết Văn Ứng Dụng Phật Pháp 2022 là một sự kiện hy hữu. Đây là giải thi viết đầu tiên ở hải ngoại để mời gọi viết bài hoằng pháp. Cũng là những hy sinh rất lớn của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương, Trưởng Ban Tổ Chức Cuộc Thi, một công trình rất nặng nhọc và rất tốn nhiều thì giờ. Điểm hy hữu là: Chùa Hương Sen được thành lập ở thị trấn Perris, California, từ tháng 4/2010, vậy mà 12 năm qua chưa xây xong chánh điện vì nhiều lý do, bây giờ đã tổ chức được một cuộc thi viết văn gây nhiều tiếng vang toàn cầu. Ngay cả khi chánh điện bằng gạch cát xi măng chưa xây xong, một chánh điện bằng chữ đã hình thành trong tâm của nhiều ngàn người quan sát Cuộc thi này trong hội trường và trên livestream. Không chỉ như thế, hy hữu là rất nhiều bài viết gửi về dự thi đều hay tuyệt vời, nêu lên được những trải nghiệm gian nan và hạnh phúc của người con Phật.
Tôi biết BS. Phạm Gia Cổn lúc tôi vừa tập tễnh bước vào đời lính, nhận trách nhiệm làm y sĩ trưởng cho Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, cùng một tiểu đoàn mà BS. Cổn vốn là y sĩ tiền nhiệm 2 năm trước. Tôi lội bộ theo TĐ, Anh làm chỉ huy trưởng Bệnh Viện Dã Chiến Đỗ Vinh tại căn cứ Non Nước, Đà Nẵng. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau ở BV Dã Chiến khi tôi theo trực thăng chuyển thương binh. Tôi nhìn thấy anh cao lớn, rất phong độ, uy dũng, với 3 bông mai đen ở cổ áo hoa rừng và dấu hiệu 3 đấm tay của Đệ Tam Đẳng Huyền Đai Tae Kwon Do ở túi áo trước ngực bên trái. Nhìn vào Anh, tôi có cảm giác như một tảng đá mạnh bạo, có tinh chất võ biền mà mình có thể dựa lưng khi cần. Dù hình tướng có vẻ rất quân kỷ, nhưng thái độ anh lại hòa nhã, ăn nói nhẹ nhàng, cởi mở nhưng trực tính. Anh đã cho tôi sự tự tin và niềm vui trong tình huynh đệ. Về sau, tôi cũng biết tin anh được đề cử làm Y Sĩ Trưởng Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù trong trận bảo vệ phòng truyến Phan Rang vào đầu tháng 4, 1975.
Hầu như mỗi cuối tuần, cô ấy và tôi đều đi đâu đó bằng tàu điện hoặc xe buýt. Ở Ukraine, có thể đi xa trong cuối tuần và trở về đúng thời hạn. Chỉ một lần chúng tôi về trễ, đi làm muộn hôm thứ hai. Đó là ngày chúng tôi đón xe đi nhờ từ Milove, vùng Luhansk, vào tháng Giêng. Đây là nơi cực điểm miền đông của đất nước. Đi đến bằng xe buýt, lúc quay về, chúng tôi cầm tay nhau đi bộ dọc con đường phủ đầy tuyết. Thuở đó chúng tôi say mê nhau. Những anh chàng ở nhà bốn cửa kiểu Liên Xô cho chúng tôi đi nhờ, không có vấn đề, ngoại trừ mỗi lần họ chỉ chở chúng tôi vài kilô mét, rồi thả xuống để rẽ vào làng của họ. Nhìn ánh sáng xanh ngát buổi hoàng hôn, chúng tôi rùng mình và cảm thấy hạnh phúc.
"Happening", ghi lại ca nạo phá thai bất hợp pháp mà bà đã trải qua, vào năm 1963 ở tuổi 23 và là nguồn cảm hứng cho bộ phim cùng tên của Audrey Diwan. Bộ phim đã được phát hành vào tháng 5 vừa qua, không lâu trước khi Tòa án tối cao pháp viện Hoa Kỳ kết thúc gần nửa thế kỷ Quyền bảo vệ sinh sản của liên bang bằng cách lật ngược Roe vs. Wade. Dù sau khi cải cách, Hàn Lâm Viên đã nỗ lực tuyên bố giải Nobel văn học đánh giá trên giá trị văn chương, nhưng câu hỏi vẫn được nêu ra: Giá trị văn chương và ảnh hưởng chính trị có biên giới ở đâu? Như trường hợp giải Nobel năm 2016, trao cho nhạc sĩ Bob Dyland. “Một nhạc sĩ kiêm nhà viết ca khúc, không phải tác giả. Mặc dù ông đã viết một hồi ký rất hay, một tập thơ dở và một bài diễn văn về The Eagles Woman.”* Việc này đưa đến nhiều dư luận phê phán, tạo ra tên gọi “kỷ nguyên hỗn loạn của giải Nobel.”
Cuốn tiểu thuyết xoay quanh một cuộc giết người bí ẩn trên một hòn đảo Ottoman hư cấu nơi sinh sống của cả người Thổ Nhĩ Kỳ và người Hy Lạp, từ đó đưa ra các suy ngẫm về sức mạnh của các quốc gia hiện đại. Một số nhân vật quen thuộc của Pamuk: Abdulhamid II, một quốc vương đấu tranh để cứu đế chế Ottoman, có chung xu hướng chuyên quyền và Hồi giáo với tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ, Recep Tayyip Erdogan. Một người khác hao giống người sáng lập đất nước, Kemal Ataturk. Đối với một cuốn tiểu thuyết lịch sử, "Nights of Plague" lại mang tính chất khá đương đại.
Annie Ernaux (tên khai sinh là Annie Duchesne; sinh ngày 1 tháng 9/1940) là một nhà văn và giáo sư văn học người Pháp. Ernaux lớn lên ở Yvetot ở Normandy. Xuất thân từ tầng lớp lao động, nhưng ba mẹ làm chủ một tiệm café-tạp hóa. Bà học ở Rouen và Bordeaux, dạy ở trường trung học và sau đó, trong 23 năm, làm việc cho một trường đại học đào tạo từ xa của Pháp, cned.
Khi mùa thu đến, những làn gió thu sẽ là nhân duyên đưa đẩy những chiếc lá, cả xanh lẫn vàng, rơi xuống cội, hoặc bay đi xa. Tâm không xao động. Vì đâu cũng là đất; đâu cũng là nơi chốn an ổn để trở về khi cuộc sống tương lai đã được chủ định sẽ như thế nào trong từng phút giây hiện tại.
Tôi có cơ hội đi dọc Việt nam sau hoà bình để kiếm sống chứ chẳng vì mục đích cao cả nào khác. Thời bao cấp đói nghèo thì ai cũng đã biết, nhưng không vì lý do thiếu thốn đủ thứ mà tô bún riêu mỗi nơi mỗi khác, nó mang đặc trưng vùng miền cũng không hẳn, vì trước năm 1975 thì tô bún riêu ở mỗi nơi đã mỗi khác trên đất nước có chiều dài như Việt nam ta.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.