Hôm nay,  

Nhân Xuân TÂN SỬU 2021, Tản Mạn Về "TRÂU" Qua Ca Dao Việt Nam

10/01/202109:52:00(Xem: 3854)

 Lê Ngọc Châu


Như chúng ta biết, lịch cổ truyền của Việt Nam gồm mười hai con giáp và Trâu là con giáp đứng thứ nhì sau Chuột dùng để tính thời gian: Tý, Sửu, Dần, Mão (Mẹo), Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và cuối cùng là Hợi. Năm Tý vừa đi qua và Năm Mới 2021 là năm Trâu, Năm TÂN SỬU.


Ca dao Việt Nam diễn tả những con giáp cho dễ nhớ qua ca dao như sau:


Tuổi Tý là con chuột xù
Thu gạo thu nếp nó bò xuống hang
Tuổi Sửu con trâu kềnh càng
Cày chưa đúng buổi nó mang cày về
Tuổi Dần con cọp chỉn ghê
Bắt người ăn thịt tha về non cao
Tuổi Mẹo là con mèo ngao
Hay quấu hay quào ăn vụng thành tinh
Tuổi Thìn, rồng ở thiên đình
Đằng vân giá vũ ẩn mình trên mây 


Có thể nói TRÂU là loài vật rất phổ biến, nhất là đối với nhà nông. Và Trâu cũng được lấy làm hình ảnh mang tính cách sinh động cho nhiều câu thành ngữ, tục ngữ của Việt Nam. TRÂU là con vật giúp đỡ cho giới nông dân rất nhiều và cũng chính con người đã đưa Trâu lên phim ảnh, đưa vào truyện, thơ văn. Ở đây người viết chỉ điểm qua giới hạn hình ảnh con Trâu trong tục ngữ, ca dao Việt Nam, vừa để thư giãn đầu Xuân vừa dùng làm bài học đối nhân xử thế ở đời.


TRÂU trong ca dao – tục ngữ của Việt Nam (VN) có rất nhiều, nhiều câu ca dao phổ biến rộng được mọi người thường nghe, nhiều người còn thuộc lòng. Đi xa hơn, trong kho tàng ngôn từ chữ nghĩa của Việt Nam TRÂU cũng đã góp mặt trong nhiều câu tục ngữ – thành ngữ, nghĩ kỹ lại thấy đều mang tính chất châm biếm ý nhị, hàm chứa tính triết lý sâu xa và cũng không kém phần hóm hỉnh, chế diễu.

 

Nhân dịp Xuân TÂN SỬU 2021, chúng ta hãy thử nghiền ngẫm một số câu tục ngữ – thành ngữ của Việt Nam về " TRÂU ", để có thể tìm thấy trong đó những nét tương đồng qua tư tưởng, ngôn từ đồng cảm qua kinh nghiệm phổ quát.


Hình ảnh con Trâu trong ca dao, tục ngữ trước hết là hình ảnh được diễn tả bằng ngôn từ. Trong hai con vật thân quen với cuộc sống của người nông dân là Trâu và Bò thì trâu được đánh giá cao hơn bò: “Trâu gầy cũng tày bò giống”, “Trâu he cũng bằng bò khoẻ” (Tục ngữ). Bò khả năng chịu rét kém, sức kéo cũng không khoẻ bằng trâu, riêng về việc kéo cày ở đồng ruộng thì khả năng của bò kém trâu xa. Trâu có sức khoẻ dẻo dai hơn bò, được ví von qua mấy ca dao như sau:

Trâu năm sáu tuổi còn nhanh,

Bò năm sáu tuổi đã tranh về già,

Đồng chiêm xin chớ nuôi bò,

Mùa đồng tháng giá, bò dò làm sao!


Chính vì ưu điểm chịu rét khá, sức kéo mạnh cho nên nhà nông nuôi trâu để phục vụ cho lao động sản xuất và là ưu tiên lựa chọn hàng đầu của người nông dân. Nghề nông mà không có trâu thì không thể tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao giống như việc nhà giàu mà không có thóc gạo: 

Làm ruộng không trâu, làm giàu không thóc


Để khỏi quên những chuyện cần làm trong năm người Việt Nam ta cũng đã mượn ca dao nhưng khéo léo kết lại thành bài thơ ngắn có vần điệu  cho dễ nhớ

Tháng giêng là tháng ăn chơi,

Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà

Tháng ba thì đậu đã già

Ta đi ta hái về nhà phơi khô

Tháng tư đi tậu trâu bò

Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm…


Muốn mua được trâu hay, cày khoẻ thì cần phải biết cách chọn trâu giống tốt. Tục ngữ cũng nêu lên kinh nghiệm mua trâu: 

Mua trâu xem sừng, mua chó xem chân” 

hay Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi”. 


Trâu sừng to, cân đối là trâu khoẻ. Cổ trâu dài, bò nếu có cổ ngắn và to là loại trâu, bò có sức kéo khoẻ. Trâu khoẻ, nhanh ảnh hưởng tốt đến hiệu quả công việc sản xuất, ca dao Việt Nam ví von:

- Thứ nhất vợ dại trong nhà,

Thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn.

- Trâu khoẻ chẳng lọ cày trưa,

Mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền.


Để cho thấy rằng nếu muốn mua trâu thì nên chọn mua trâu nái tức “xem vó”, cũng tương tự như lấy vợ thì chọn con nhà có dòng dõi, sức khỏe tốt và … khả năng sinh sản, ca dao có câu Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi. 


Vì Trâu chính là con vật đóng vai trò hàng đầu của nhà nông: 

Con trâu là đầu cơ nghiệp.

nên người nông dân mua trâu bò cũng chọn ngày tháng.

Tháng tư đi tậu trâu bò,

Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm…


Ai muốn làm giàu thì phải nuôi trâu, đặc biệt là trâu nái vừa cày vừa sinhh sản và bán trâu giống là có cơ hội làm giàu: 

Muốn giàu nuôi trâu nái, muốn lụn bại nuôi bồ câu


Tuy nhiên, việc “tậu trâu” là việc hệ trọng giống như chuyện “lấy vợ, làm nhà” và chọn trâu tốt không phải là công việc dễ dàng.

Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà

Trong ba việc ấy thật là khó thay.


Sự giàu có sung túc của nhà nông được đánh giá bằng chất lượng và số lượng ruộng và trâu: 

Ruộng sâu, trâu nái


Cao Dao Tục ngữ Việt Nam nói riêng cũng lấy hình ảnh con trâu để đề cập đến các mối quan hệ trong xã hội. Ngày xưa và ngay cả bây giờ, sự tranh chấp nhau làm cho dân tình gánh chịu khốn khổ hay đơn giản tình bạn tan vỡ và có câu tục ngữ đã diễn tả khéo léo cảnh này: 

Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết. 


Để ám chỉ sự ghen ghét nhau của các quan chức thời xưa cũng như có thể nói ngay cả trong đời sống xã hội hiện tại, dân gian dùng hình ảnh “trâu buộc” và “trâu ăn” một cách tài tình, dễ hiểu :

Trâu buộc thì ghét trâu ăn,

Quan võ thì ghét quan văn dài quần.


Nhận xét về các loại người trong xã hội, tục ngữ cũng mượn hình ảnh con trâu. Mượn “trâu chậm” và “trâu ngơ” một cách khéo léo để ám chỉ loại người chậm chạp, ngu ngơ và bị thua thiệt: 

Trâu chậm uống nước dơ, 

Trâu ngơ ăn cỏ héo”. 


Riêng về lãnh vực nhân tình thế thái, dân gian ta cũng mượn hình ảnh con trâu với các cấu trúc ngữ nghĩa khác nhau. Chẳng hạn để ám chỉ cho một sự việc nếu để lâu nó sẽ giảm bớt đi hiệu quả hay sự quan trọng của nó cũng bị giảm, tục ngữ ta có câu đơn giản, dễ hiểu:

Cứt trâu để lâu hoá bùn 


Thông thường đôi khi người ta không nhận ra tầm quan trọng của sự việc hay món đồ dùng bởi lẽ khi họ có nhiều xài không hết thì chê thế này chê thế nọ nhưng gặp lúc thiếu hụt, không có (ví dụ nếu đang đi giữa bãi sa mạc, sắp chết vì thiếu nước uống), thì đành phải chấp nhận như sau

Nước giữa dòng chê trong, chê đục

Vũng trâu đầm hì hục khen ngon


Đề cập đến sự tương trợ lẫn nhau, cũng có câu: 

Trâu béo kéo trâu gầy. 

Nói đến trâu là gắn với khả năng cày bừa và làm việc vất vả, nặng nhọc trong ngành nông nghiệp: 

Trâu cày ngựa cưỡi. 


"Tác giả dân gian" cũng đã mượn con Trâu với 

đặc tính không thính tai để đề cập đến triết lý có tính nhân sinh, khi nói chuyện hay làm việc một cách vô ích, không có hiệu quả với người không hiểu biết qua các câu ca dao đơn giản như sau:

Đàn đâu mà gảy tai trâu,

Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi!


Khi chăn trâu thì phải luôn coi chừng nó, không để trâu đi lạc đàn, trâu ăn lúa. Trâu đã đi vào ca dao huyền thoại nói về chú Cuội chăn trâu mãi chơi, ngồi gốc cây đa để trâu ăn lúa”

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa

Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời


Chăn trâu tuy đơn giản nhưng lại là một việc làm khá vất vả, phải đi sớm về khuya, suốt ngày phơi mặt ngoài đồng, phải chịu mưa nắng gió rét, chăm sóc trâu cho béo tốt để có sức mà kéo cày:

Trâu anh con cưỡi con dòng,

Lại thêm con nghé cực lòng thằng chăn.


Chuyện nặng cày bừa của nhà nông với con trâu thường do người đàn ông đảm nhận. Vì vậy, biết điều khiển trâu và cày sao cho giỏi là tiêu chuẩn để đánh giá người con trai trong việc đồng án:

Trai thì cày ruộng khiển trâu

Gái thì phải biết bổ cau têm trầu


Nghề nông là một nghề vất vả nhưng là một nghề cao cả vì nó quyết định đến đời sống của mọi người. Người Á Châu nói chung và người Việt Nam nói riêng, cơm là món ăn chính hàng ngày. Câu ca dao sau đây diễn tả rõ nét sự lam lũ của nghề nông và lời nhắn gửi với mọi người đừng quên công lao nhọc nhằn của họ:

Lao xao gà gáy rạng ngày,

Vai vác cái cày, tay dắt con trâu.

Bước chân xuống cánh đồng sâu,

Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày.

Ai ơi! Bưng bát cơm đầy,

Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng.


Chính vì vất vả nặng nhọc và mang trách nhiệm nặng nề nên đứa trẻ chăn trâu được xã hội xưa coi trọng, quý mến. Có cả một lễ hội mục đồng mà những đứa trẻ chăn trâu tham gia và được đối xử trọng vọng. Ngoài ra, cũng có Lễ hội chọi trâu là một hình thức thi trâu khoẻ, tôn vinh người chăn trâu, ai có trâu thắng cuộc thì rất vinh dự. Lễ hội chọi trâu trở thành một ngày hội lớn:

Dù ai buôn đâu bán đâu,

Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về.

Dù ai buôn bán trăm nghề,

Mồng mười tháng tám trở về chọi trâu.


Văn hóa nghề nông cũng được diễn tả rõ nét qua công việc cày cấy, mối quan hệ giữa người và trâu. Trâu không còn là con vật mà còn là người bạn của nhà nông, họ thường tâm tình tha thiết với trâu về công việc cày cấy, ân cần khuyên bảo trâu ăn uống, làm lụng, luôn cả về vấn đề triết lí nhân sinh mà có lẽ nhiều người đã từng nghe:

Trâu ơi! Ta bảo trâu này!

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.

Cày cấy vốn nghiệp nông gia,

Ta đây trâu đấy ai mà quản công!

Bao giờ cây lúa trổ bông,

Thời còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.


Tuy vất vả nhưng có thể nói là người nông dân luôn yêu đời, lạc quan và tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Họ coi việc cày cấy là niềm vui. Giữa trâu với người lao động, cảnh trâu và người cùng đồng hành hăng say trong công việc nhà nông, họ xem trâu như một thành viên trong gia đình:

Rủ nhau đi cấy đi cày

Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu

Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa


Đề cập về mối quan hệ trai gái, câu tục ngữ “Trâu tìm cọc (cột) cọc (cột) chẳng tìm trâu” ám chỉ người con trai thường đi tìm người con gái để ngỏ lời chứ con gái không đi tìm con trai để tán tỉnh. Hình ảnh đáng yêu của “ngọn cỏ phất phơ” là em và anh là “con nghé nhởn nhơ” đi tìm cỏ, cỏ cần cho trâu và trâu bao giờ cũng khát khao ăn cỏ, như "chàng khát khao nàng" với câu ca dao:

Em như ngọn cỏ phất phơ,

Anh như con nghé nhởn nhơ giữa đồng


Để thề thốt yêu thương, ca dao về Trâu ví von:

Trăm năm còn có gì đâu

Miếng trầu liền với con trâu một vần


Hay trách móc khéo tuy nhẹ nhàng mà cay đắng:

Công anh chăn "nghé" đã lâu,

Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày ?


Nhưng trong đời sống cũng có những cô gái có lối sống xa hoa vật chất, và để so sánh với hình ảnh con trâu chỉ ăn cỏ để sống qua ngày ca dao với ý muốn châm biếm không thiếu, như:

Ai nói chăn trâu là khổ??
Tôi chăn nàng còn khổ hơn trâu. 

Trong xã hội, thông thường dân làng nào thì theo tập quán của làng ấy theo kiểu "bảo thủ": 

Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy 


Để tự than thở cho số phận hẩm hiu chẳng may trên con đường tình ái, ca dao cũng mượn con Trâu để diễn tả :

Chẳng qua số phận long đong 

Cột trâu, trâu đứt, cột tròng, tròng trôi


Chưa hết. Người đời còn mượn hình ảnh của con Trâu để nói lên sự thèm khát ái tình... Ca dao Việt Nam diễn tả rất khéo léo về tình tiết này qua yêu cầu của người bạn "có lẽ chưa chồng" muốn có được vòng tay ôm ấp một cách tế nhị như sau: 

Của chua ai nấy cũng thèm 

Em cho chị mượn chồng em vài ngày …


Và mời nghe người bạn gái trả treo rất văn chương, tuy đùa cợt nhưng thâm thúy : 

Chồng em đâu phải trâu cày 

Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm 


Để đề cập về cách sống theo bầy đàn của trâu bò, cũng là tâm lí nói về tính cộng đồng xã hội: 

Trâu có đàn, bò có lũ


Người Việt Nam nói riêng, đa số tôn trọng và coi danh dự hơn cả của cải vật chất nên thường cố gắng tạo danh tiếng cho mình. Để nhắc nhở mọi người nên giữ gìn danh dự, có câu tục ngữ:

Trâu chết để da, người ta chết để tiếng.


Hoặc để cảnh giác, khuyên răn thì có câu: 

Trâu kia chết để bộ da

Người chết để tiếng xấu xa muôn đời


Ca dao hay tục ngữ truyền khẩu về con "TRÂU" thì còn rất nhiều nhưng người viết chỉ trích dẫn một số ít ca dao trên đây, góp nhặt được trên internet. Rất tiếc bài viết có giới hạn nên tôi không thể trích dẫn hết để trình bày cùng quí vị, mong thông cảm. Nhưng qua đó hy vọng cũng đủ gói ghém ý nghĩa sâu sắc của ca dao, có thể nói là căn bản của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Mong quý độc giả hoan hỷ cho mọi sơ sót. Đa tạ. 


Kính chúc Quý độc giả một năm mới TÂN SỬU 2021, "AN KHANG THỊNH VƯỢNG".



* © Lê Ngọc Châu – (Nhân Xuân TÂN SỬU 2021,  

       Nam Đức, ngày 08.01.2021), Phỏng tác theo ca dao, tục ngữ góp nhặt trên internet. Hình minh họa. 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nữ sĩ Linh Bảo kỷ niệm sinh nhật 98 tuổi hôm chủ nhật April 14, 2024 và vừa mất sáng sớm hôm qua, April 22, 2024 tại tư gia ở Westminster, nam Cali...
Chiều thứ Bảy, 13/4/2024, tại hội trường Nhật báo Người Việt, Quận Cam, đã có một sự kiện văn học đáng chú ý. Đó là buổi Ra Mắt Sách (RMS) của nhà văn Đặng Thơ Thơ với cuốn tiểu thuyết mới nhất của chị, “Ai”...
Nhà văn, nhà thơ Viên Linh (1938-2024) vừa ra đi. Ông tên thật là Nguyễn Nam, sinh ngày 20/1/1938 tại Hà Nam, từ trần ngày 28/3/2024 tại Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi. Bài viết này để đưa tiễn nhà thơ Viên Linh, người mà tôi hân hạnh có nhiều năm thân cận tại Quận Cam, California. Tôi thuộc thế hệ sau nhà thơ Viên Linh rất xa, nên những gì biết và tương tác với nhà thơ chỉ là một góc nhìn. Tôi hân hạnh được gọi nhà thơ Viên Linh là "anh" theo thói quen giao tiếp trong giới văn nghệ, cũng như tôi đã gọi anh Mai Thảo, anh Nhật Tiến, anh Nguyễn Mộng Giác, anh Trần Dạ Từ, chị Nhã Ca... trong những buổi gặp nhau ở Quận Cam. Thật sự họ cách biệt tôi rất nhiều, vì họ đã hiện ra như các ngọn núi huyền thoại của văn học Miền Nam trước 1975. Và tôi đã có cơ duyên làm người bạn trẻ của họ. Và cũng là người viết các bản tin về họ, vì tôi phụ trách mục tin tức trên tờ Việt Báo. Trong các bài viết hay bản tin trước giờ về Viên Linh, đôi khi tôi gọi Viên Linh là anh, đôi khi gọi là ông.
Nhà thơ Viên Linh ra đi trong Tháng Ba, nhưng tang lễ của ông diễn ra trong Tháng Tư. Ừ nhỉ, Tháng Tư! Bây giờ đã bước vào Tháng Tư. Tháng Tư đối với người Việt Nam chứa đầy ký ức thương đau! Đất nước thay ngôi đổi chủ. Hàng hàng lớp lớp người bị đẩy vào các ngục tù khổ sai trên khắp nước. Hàng triệu người bị đuổi khỏi nhà cửa vườn tược để đi tới những “vùng kinh tế mới” xa xôi, lạ hoắc, những nơi “khỉ ho cò gáy.” Hàng trăm ngàn người bỏ nước ra đi, lên núi, xuống biển để tìm lẽ sống trong cái chết bi hùng! Đúng như nhà thơ Viên Linh đã viết, “Tháng tư máu chảy một trời sương tan.”
Cùng một thời điểm làm “Thơ Tình”với Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương, nhưng có một cái gì rất khác với hai thi sĩ này. Thanh Tâm Tuyền mở ra cho chúng ta một trang Thơ Tình rất lạ, rất khác, rất kén độc giả nhưng vô cùng quyến rũ. Nhân kỷ niệm ngày qua đời của Thi Sĩ Thanh Tâm Tuyền, tôi muốn nói về 2 bài Thơ trong số những bài Thơ tôi yêu thích của Thanh Tâm Tuyền...
Vòng Tay Học Trò là tác phẩm tiêu biểu của nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng, được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa năm 1964. Tác phẩm được công chúng nồng nhiệt đón nhận và theo đó cũng hứng nhiều luồng ý kiến khác nhau, càng làm cho tác phẩm nổi tiếng hơn. Chính vì vậy, từ khi xuất hiện, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn, làm xôn xao dư luận trong giới chuyên môn và công chúng độc giả. Hàng chục năm sau, lúc chúng tôi còn nhỏ, chưa đọc tác phẩm đã thuộc tựa đề vì Vòng Tay Học Trò gắn liền với tên tuổi tác giả. Nói đến Nguyễn Thị Hoàng người ta nhớ đến Vòng Tay Học Trò...
Nhà sư, nhà thơ, nhà thư pháp Thích Nhuận Tâm cho biết sau khi thầy hoàn tất Lớp hướng dẫn thư pháp tại Huntington Beach, California cuối tuần này, Thầy sẽ bay sang Houston, Texas để sẽ hướng dẫn một lớp thư pháp dự kiến sẽ mở ra tại Tịnh Xá An Nhiên ở Houston.
Bài thơ Lời tình buồn được nhạc sĩ Vũ Thành An phổ nhạc năm 1967, khi nhạc sĩ và thi sĩ Chu Trầm Nguyên Minh cùng đang theo học lớp Sĩ quan tại quân trường Lam Sơn, Đồng Đế, đến nay đã trở thành một trong những ca khúc vượt thời gian, được thể hiện qua những giọng ca: Tuấn Ngọc, Khánh Ly, Bằng Kiều…
Trong một bối cảnh đất nước nhiễu nhương, hỗn loạn, nhà văn thường đóng một vai trò quan trọng bằng cách sử dụng ngôn từ của mình để phản ánh, phê bình, truyền cảm hứng và đôi khi thậm chí thách thức hiện trạng. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhà văn phản ứng với những biến động khác nhau, cho dù đó là xã hội, chính trị hay văn hóa...
Tết và Xuân, Xuân và Tết, thời điểm kỳ lạ trong một năm. Vừa trông chờ vừa mong đừng đến. Vừa lưu luyến rét đông vừa háo hức xuân ấm. Vừa khép kín đoàn tụ gia đình vừa chan hoà xôn xao lễ hội. Vừa lặng lẽ hoài niệm chuyện riêng tư vừa hân hoan cùng nhau “nâng chén ta chúc nơi nơi”...