Hôm nay,  

Chia Biệt Nhà Văn Nhật Tiến [1936-2020]

24/09/202020:51:00(Xem: 3449)

blank

 Từ trái: Tống Văn Công, Trịnh Y Thư, Nhã Lan (xướng ngôn viên đài Hồn Việt TV), Nhật Tiến, Hoàng Hưng.

Đối với những người viết thuộc thế hệ tôi, gần như ai cũng ít nhiều đọc văn Nhật Tiến ở tuổi đang trưởng thành. Những trang viết trong sáng và nhân ái của ông đã là hành trang cho tuổi trẻ chúng tôi lúc bấy giờ. Và như chính ông nhiều lần khẳng định, ông là một nhà giáo trước khi là nhà văn, chữ “Nhà Giáo” được ông trân trọng viết hoa trong suốt cuộc đời ông, và có lẽ đó là lý do chính khiến ông bất chấp hiểm nguy liều mình bỏ nước ra đi. Ông viết như sau trong cuốn Nhà giáo một thời nhếch nhác: “… trải gần 4 năm trầy trợt dưới một mái trường XHCN, tôi phát giác ra rằng ở đấy người ta không những không trang bị điều gì tốt đẹp thêm cho nhận thức của nhà giáo, mà tệ hơn, lại còn không cho phép các thầy các cô được làm tròn vai trò của một nhà giáo đúng nghĩa.”


Tôi nhìn thấy ông trong tư cách một nhà giáo hôm tôi ghé tòa soạn báo Học Đường Mới đâu năm 66 hay 67 gì đó. Lúc đó tôi là cậu học sinh Trung học tập tành thơ văn và ông phụ trách trang văn nghệ cho tờ Học Đường Mới, một tờ báo dành riêng cho thanh thiếu niên. Tôi đến để đưa bài đăng báo, và ông đã tiếp tôi như một người lớn, dành cho tôi nhiều cảm tình tốt đẹp. Chỉ một lần mà tôi nhớ mãi cho đến bây giờ dù hơn nửa thế kỷ đời người đã trôi qua. Nhớ vì cái nhân cách của ông. Nhân cách đó còn mãi sau này, khi tôi gặp lại ông ở hải ngoại.


Năm 1970 tôi lên đường đi du học, và trong va li của tôi hôm ra phi trường, tôi nhét vào ba cuốn sách, một trong ba cuốn ấy là tiểu thuyết Chuyện Bé Phượng của ông. Cuốn sách tôi vẫn giữ kỹ cho đến ngày hôm nay.


Nhật Tiến là nhà văn của thời đại, một thời đại cực kỳ nhiễu nhương và tang tóc của dân tộc, và ông đã hoàn tất nhiệm vụ vô cùng khó khăn của nhà văn là nói được tiếng nói của thời đại mình. Ông viết không phải để cho mình. Ông viết thay những kẻ bất bất hạnh trong xã hội, những kẻ thấp cổ bé miệng không có tiếng nói, và ông không bao giờ chịu bẻ cong ngòi bút. Nhà văn Mai Thảo khi còn tại thế, gọi Nhật Tiến là “người đứng ngoài nắng.” Vâng, ông đứng ngoài nắng để tìm bóng mát cho chúng ta, và chỉ chừng đó thôi, chúng ta đã chịu ơn ông nhiều biết dường nào.


Nếu Võ Phiến định nghĩa nhà văn là kẻ “phải lòng” với cuộc sống, thì Nhật Tiến là người “mắc nợ” cuộc sống. Ông không lấy sự cảm nhận mọi diễn biến của cuộc sống xung quanh làm cái sinh thú của mình. Ông nhìn bề trái của sự vật – những điều chúng ta vô tình hoặc cố ý lảng quên – rồi ông lật phải lật trái nó, cho chúng ta mục kiến thực tại, một thực tại tuy đau đớn nhưng cần thiết được nói lên.


Nhà văn Nga Dostoevsky bảo “cái đẹp sẽ cứu vãn thế giới,” nhưng đối với Nhật Tiến thì “tình người sẽ cứu vãn thế giới.” Ông tin tưởng sâu sắc vào tình người và chính vì thế ông không tuyệt vọng, ngược lại, ông luôn luôn gieo niềm hy vọng nơi chúng ta và đặt tin tưởng tràn trề vào tương lai, vào thế hệ của tuổi trẻ.

“Thưa anh Nhật Tiến, anh đã đi đến cuối con đường của anh. Chúng em những kẻ còn ở lại chẳng biết nói gì hơn một lời tạ ơn, tạ ơn lòng yêu quê hương và những đóng góp của anh đối với đất nước, tạ ơn con đường anh mở rộng cho kẻ đi sau chúng em kế thừa, tạ ơn mối thịnh tình anh dành cho tất cả mọi người thân sơ, tạ ơn một tâm hồn cao quý, một nhân cách hiền hoà luôn luôn làm tấm gương cho chúng em noi theo. Xin từ biệt anh.”



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nằm nhà rảnh rỗi suốt những ngày đại dịch Coronavirus Disease-2019 (COVID-19) hoành hành khắp nơi trên thế giới, tôi lại kệ sách lấy xuống cuốn tiểu thuyết La Peste của Albert Camus đọc lại, và sau khi đọc tôi bỗng giật mình vì những gì đang xảy ra quanh tôi ngày nay đã được Camus miêu tả thật chính xác cách đây trên 70 năm.
Nguyễn Du mất năm 1820, lúc 54 tuổi, giữa cơn dịch khủng kiếp từ Á sang Âu. Dịch tả phát xuất từ Ấ́n Độ sang nước ta cuối triều vua Gia Long, đầu triều vua Minh Mạng, có khoảng trên hai trăm ngàn người chết từ Bắc chí Nam, cơn dịch theo một người lính đi tàu từ Ấn Độ về cảng về đến Toulon nước Pháp gây truyền nhiễm làm tiêu hao phân nửa dân số Âu Châu thời bấy giờ.
Người ta nói, đại dịch đã đến rồi. Các công sở sẽ đóng cửa. Các con đường sẽ đóng bớt lại. Nhà hàng, rạp hát, những nơi vui chơi giải trí... tất cả đều phải đóng. Mỗi người hãy tự cách ly, đừng lang thang bên ngoài nữa. Một sẽ hại tất cả, và tất cả chung quanh cũng sẽ hại cho một. Mỗi cá nhân đều có liên hệ hỗ tương với gia đình và xã hội; tuy ly cách nhưng thực ra không ai tách rời khỏi thế giới. Mỗi người hãy tự ý thức vai trò và trách nhiệm của mình trong cuộc đời.
Tác giả không còn sống để bác sĩ Phân Tâm Học đặt những câu hỏi dẫn dắt liên tưởng tự do. Vì thế những gì viết về giấc mơ này hoàn toàn chỉ có tính giả thuyết dựa trên một số tài liệu liên quan đến những tình tiết trong mơ. Giấc mơ mà tác giả kể lại chính là nội dung mơ biểu hiện, xuất hiện dưới hình thức một câu chuyện. Nội dung mơ tiềm ẩn là bao nhiêu biến cố trong đời tác giả trải qua cho đến khi viết truyện này vào tháng 9 năm 1959.
Xin giới thiệu, tôi tên là Thừa. Tất nhiên, tôi không tự chọn tên cho mình. Đây là tên do ba tôi đặt. Ở đời, cái gì không cần thiết, người ta gọi là thừa. Khi đến Mỹ, buồn cảnh xất bất xang bang, chữ nghĩa cũng chán cảnh mang râu đội mũ, tôi được gọi là Thua. Từ ấy, tôi đâm ra không thích tên mình. Khi có trí khôn hiểu ra được mọi việc, chưa kịp thắc mắc tên mình với ba tôi thì ông đã chết. Ông chết vì lỡ sinh ra làm đàn ông trong thời chiến.
Họa sĩ Đinh Trường Chinh thuộc thế hệ họa sĩ “trẻ,” trưởng thành và định hình trong nghệ thuật ở hải ngoại những năm gần đây. Anh vẽ dễ dàng, sáng tác mạnh, luôn tìm tòi ý thức mới trong hội họa, nhạy bén trước các vấn đề xã hội và nhân sinh. Ý thức hội họa là điểm mạnh trong tranh của anh, người xem luôn luôn cảm nhận một ý tưởng rốt ráo nào đó, dù hiện thực hay siêu hình mang tính triết học. Ngoài vẽ, anh còn làm thơ, và cũng như tranh, thơ anh thấm đẫm tính trữ tình, đầy ắp những băn khoăn với cuộc sống bên trong một tâm hồn thơ mẫn cảm.
Nước Mỹ có bản Tuyên Ngôn Độc Lập tuyên dương quyền bình đẳng của con người từ buổi bình minh dựng nước vào hậu bán thế kỷ 18. Mỹ là nước đa văn hóa, đa sắc tộc nên cũng là nước có nhiều tự do, dân chủ và bình đẳng nhất thế giới. Năm 2008, nước Mỹ đã làm cả thế giới ngạc nhiên và thích thú vì lần đầu tiên trong lịch sử của Hiệp Chúng Quốc có một người Mỹ gốc Phi Châu làm Tổng Thống, Barack Obama. Nhưng tại sao mãi đến nay, năm 2020, nước Mỹ vẫn chưa có một nữ tổng thống? Từ Thực Tế Đời Thường Đến Văn Chương Chuyện phụ nữ muốn làm tổng thống Mỹ không phải là điều mới lạ chỉ xảy ra trong chừng mươi năm qua với những nữ ứng cử viên sáng giá như bà Hillary Clinton trong cuộc bầu cử năm 2016, hay trong cuộc vận động tranh cử tổng thống trong năm 2020 với 6 nữ ứng cử viên, mà là chuyện đã từng xảy ra trong quá khứ trên thực tế và trong văn chương hư cấu. Chuyện thực tế là vào năm 1872, Victoria Woodhull, nhà môi giới chứng khoán, chủ nhiệm báo, và cải cách xã hội, đã ra tranh cử
Bởi vậy, những người được yêu thường thích được mắng. Nhưng những người hay mắng chưa chắc đã hay yêu. Có khi thương đứt ruột mà không yêu. Cũng lạ. Cho nên, phân biệt được mắng có yêu và mắng không yêu là cốt lõi của đời người vậy.
Làm mới ngòi bút luôn luôn là nỗi ám ảnh lớn cho người chọn nghiệp văn. Nhưng có lẽ nỗi ám ảnh ấy đè nặng lên vai người làm thơ nhiều hơn người viết văn xuôi.
Bên trong các bức tường trại giam, luôn luôn là những hoàn cảnh rất buồn của những người trải qua một thời bất trắc gian nan. Nhưng cũng từ sau các chấn song sắt, thi ca và Thiền chánh niệm đang trở thành niềm vui mới cho rất nhiều tù nhân. Trong các nhà thơ mặc đồng phục nhà tù Hoa Kỳ đó, có những người gốc Việt --- có người viết bằng tiếng Việt, có người viết tiếng Anh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.