Hôm nay,  

Con Bệnh

29/05/202000:00:00(Xem: 2574)
CON-BENH
Cậu chủ sốt vất váng nằm vật vạ ra đấy, đầu nhức như búa bổ, mình mẩy đau như dần, cổ họng khô rát, trong huyết quản dường như máu sôi lửa đốt… Thuốc đã uống mấy liều nhưng thuyên giảm chẳng bao nhiêu, hễ hết thuốc thì sốt trở laị, chườm nước đá, chà chanh làm đủ kiểu ngoại phương cũng không ăn thua gì. Mẹ cậu thúc giục:
 
 - Con đi bác sĩ xem sao, xét nghiệm thử có bệnh gì nghiêm trọng không? lẽ nào cảm sốt thông thường mà lâu thế?
 
 Cậu chủ dạ cho qua chuyện rồi uống thêm liều thuốc nữa nằm thiêm thiếp mơ màng

 Đám tiểu yêu ngông cuồng rông rỡ, chúng chạy rần rần khắp nơi, cắn xé hò hét inh ỏi. Bọn chúng hình thù quái dị, đứa thì gai góc tua tủa như con nhím biển, đứa thì vô số xúc tua trên thân như bạch tuộc, đứa thì tròn lẳn và trên thân đầy giác bám như núm cao su… Chúng chạy ngược xuôi loạn xạ, dường như chẳng có đầu lĩnh, chúng nó làm bất cứ gì chúng muốn, chỉ cần một đứa kêu thì cả bọn rần rần ùa theo. Ban đầu chúng từ bên ngoài, nhân lúc cậu chủ sơ ý thế là bọn chúng nhập vào và ra sức tung hoành. Một đứa trong bọn kêu:
 
 - Anh em ơi, chúng ta phải tấn công vào phổi hắn, làm cho hắn ta không thở được thì chúng ta mới hạ gục được!
 
 Cả bọn rùng rùng kéo vào phổi, các chiến binh bạch cầu bảo vệ cậu chủ núng thế, chúng tiêu diệt nháy mắt. Nhập vào phổi rồi chúng rúc rỉa, đục khoét lá phổi, mỗi nhát cắn của chúng là những cơn ho rũ rượi của cậu chủ. Bọn chúng rúc rỉa cuồng điên, bất ngờ chúng gặp một binh đoàn kháng thể từ ngoài đưa vào, những kháng thể từ liều thuốc của cậu chủ uống. Bọn chúng khựng laị một tí nhưng rồi ỷ mạnh và đông, chúng tràn lên nhưng những kháng thể quá mạnh,  một số bỏ mạng, một số núng thế, bọn chúng rút lui trốn thật sâu trong ngóc ngách phổi và các phần tạng khác. Binh đoàn kháng thể tiêu diệt bọn virus kia đã giúp cậu chủ dứt cơn ho, sốt hạ xuống, giấc ngủ êm hơn những ngày qua. Tiếc là thời hạn các kháng thể yếu dần. Bọn tiểu yêu lập tức tái nhóm, chúng sinh sôi thật nhanh, cho ra những biến thể mới kháng laị các kháng thể thuốc. Những phiên bản virus mới còn ghê gớm hơn loại đời đầu, chúng lập tức lan toả khắp thân thể. Một đứa trong bọn kêu gào:
 
 - Anh em ơi, chúng ta phải xâm nhập vào tim và não hắn, đấy là hai cơ quan nội tạng quan trọng. Từ tim sẽ khống chế toàn bộ cơ thể, từ não làm hắn ta tê liệt!
 
 Cả bọn nhảy cẩng lên:
 
 - Đúng thế! phải tấn công tim và não hắn ta!
 
 Đám tiểu yêu virus nhảy nhót nhe nanh muá vuốt, chúng khạc nhổ phóng uế bừa bãi vừa cắn xé những tế bào bên cạnh chúng. Chúng chia hai hướng tiến vào tim và não cậu chủ. Cậu chủ lên cơn sốt trở laị, nằm mê man hầu như không nhận biết được chung quanh. Mẹ cậu chủ gọi cấp cứu đưa vào nhà thương. Bác sĩ lập tức truyền dịch, cho thở bằng máy trợ hô hấp, chích thuốc hạ sốt và lấy máu, mô đi xét nghiệm lập tức. Bác sĩ điều trị lẩm bẩm:
 
 - Thật lạ quá, loaị virus này chưa từng thấy bao giờ, không biết y văn có ghi nhận chưa? Tôi đã điều trị hàng trăm ca viêm phổi nhưng chưa hề thấy trường hợp naò như trường hợp này. Phổi cậu ta bị virus phá huỷ, tim, não cũng suy. Chẳng có thứ thuốc nào trị được lũ virus này, chúng laị sản sinh và phát tán cực nhanh.
 
 Vị bác sĩ ấy lập tức báo cáo với trưởng khoa, viện chủ và các đồng nghiệp. Nào ngờ vị bác sĩ ấy bị các giới chức an ninh kêu lên cảnh cáo và đe nẹt:
 
 - Cậu phải lập tức bỏ ngay cái ý nghĩ của cậu, chẳng có virus lạ nào cả, đó cũng chỉ là viêm phổi thông thường mà thôi. Cậu mà còn nói nữa thì cậu sẽ biết chuyện gì xảy ra chứ? cậu thiếu lập trường quan điểm laị có tư tưởng hữu khuynh, cậu đang bôi xấu chính quyền. Cậu làm lợi cho thế lực thù địch, bọn chúng sẽ dùng báo cáo của cậu để phá hoại chính sách của nhà nước ta. Từ hôm nay cậu không được đưa tin cho bất cứ ai!
 
 Kiểm điểm và đe nẹt xong, họ cho người lập tức hủy hết các báo cáo và những bằng chứng về loại virus lạ ấy. Các bác sĩ khác không còn ai dám nói gì, có người cũng không hề hay biết là virus lạ và có cuộc phê bình vị bác sĩ kia. Nhà cầm quyền lập tức cử một nữ tướng đến thành phố và hạ lệnh cho bệnh viện:
 
 - Những bệnh nhân có dấu hiệu giống cậu chủ đều phải ghi là viêm phổi thông thường.
 Ngày thứ mười thì bọn tiểu yêu virus hoàn toàn làm chủ, hai lá phổi cậu chủ hư hỏng hoàn toàn, cậu chủ thở bằng máy trợ thở và không còn cơ hội phục hồi. Đám tiểu yêu virus giờ thì mạnh đến độ không còn khống chế được nữa. Bạch cầu và các kháng thể như những con dê đối đầu cọp đói.
 
 Cậu chủ qua đời, mẹ cậu chủ và bạn bè giao tiếp với cậu cũng đổ bệnh và những dấu hiệu cũng y như cậu ta, những người lạ vô tình tiếp xúc với mẹ cậu ta, bạn cậu ta cũng dính bệnh như cậu. Vài tuần sau thì số người bị bệnh giống cậu không còn đếm nổi, bệnh viện không còn chỗ, người bệnh và người chết la liệt, các lò thiêu hoạt động hết công sức, cả ngày lẫn đêm. Vị bác sĩ điều trị cho cậu ta cũng lây bệnh và ra đi theo cậu ta, một cái chết lặng im trong muôn ngàn cái chết. Có những người biết chuyện, muốn vinh danh vị bác sĩ nọ, vì đã có công phát hiện và cảnh báo về loài virus nguy hiểm này, tiếc thay ý định tốt đẹp vừa khởi lên thì bị dập ngay. Một khẩu lệnh ban xuống:
 
 - Cấm ngặt việc tưởng niệm, ông bác sĩ ấy cũng như mọi bác sĩ khác, chẳng có virus lạ nào cả. Kẻ nào lợi dụng vụ việc để bôi xấu nhà cầm quyền sẽ bị trừng phạt!
 
 Khẩu lệnh ban ra cùng với khẩu hiệu được vẽ khắp nơi:” Mở miệng đập gãy răng, ra đường đập gãy chân”, “ Mỗi con bệnh ở thành phố này là một quả bom nổ chậm”, “ Chống dịch như chống giặc”…
 
 Bấy giờ đám tiểu yêu virus đó được người ta ban cho nó những cái tên thật kêu: Coronavirus, Covid-19… Đám tiểu yêu virus ấy trở thành đám kiêu binh loạn tướng. Chúng theo chân người du lịch, di dân, bọn khách về quê rồi quay trở laị….mang virus khắp bốn phương. Ở vùng đất mới, bọn ngoại kiều về quê khi trở laị mang chúng theo và bọn chúng lập tức hoành hành, chẳng mấy chốc ở đấy trở thành ổ dịch lớn nhất thiên hạ, sau khi chúng hoành hành ở Wuhan, Lombardy, Roma, Tehran, Paris, New York… Bọn chúng che giấu quốc tịch và nguồn gốc của chúng. Thế giới hoàn toàn mù mờ về chúng, vì thế mà chẳng có cách nào điều trị cho hiệu quả, chẳng có thứ thuốc nào ngăn ngừa và cũng chẳng có dữ liệu nào để chế thuốc diệt chúng. Bản thân bọn chúng biết chúng từ đâu nhưng chúng ngậm miệng ăn tiền, tuyệt nhiên chẳng hé lộ chi cả. Người của chúng laị tung ra nhiều tin giả, những thuyết âm mưu nhằm che đậy sự thật nhằm tránh sự lên án của thiên hạ, đồng thời để trục lợi từ cơn dịch.
 
 Có người phẫn nộ thì chúng úp mở:
 
 - Bọn tớ từ món soup dơi!
 
 Người ta hặc lại:
 
 - Dơi cũng được nhiều nơi ăn, sao Virus chỉ có ở Wuhan?
 
 Chúng cười cười:
 
 - Chúng tớ từ động vật hoang dã, từ chợ hải sản.
 
 Thiên hạ nổi đoá:
 
 - Động vật hoang và chợ hải sản có khắp nơi, cớ sao chỉ ở Wuhan mới có virus này?
 
 Bây giờ chúng cười gằn:
 
 - Chúng tớ từ thuyết âm mưu, từ phòng sinh hoá Wu Han, từ âm mưu tàn độc của Tập đaị ca…nhưng các người chẳng làm được gì chúng tớ đâu!
 
 Bọn virus hoành hành khắp thế gian như chốn không người, chúng đặc biệt thích những thành đô lớn và những trung tâm dưỡng lão…Có một điều khá lạ lùng trong cơn đaị dịch này làm thiên hạ phải nghĩ laị, phải tính tới. Có quốc độ nọ nằm sát ổ dịch Wu Han nhưng bọn virus không hề tấn công nổi, mặc dù xứ ấy mở toang cửa đón người từ xứ dịch đến chơi hoặc làm gì đấy thì cũng chẳng ai biết. Xứ ấy có vài trăm mống bệnh nhưng đều là người từ ngoài vào hoặc là kẻ đi ra ngoài mang bệnh mà về, không hề có người bị bệnh từ địa phương và cũng không có lây lan trong cộnng đồng. Có nhiều lý giải nhưng chẳng có lời nào đủ sức thuyết phục, tỷ như: Người xứ ấy có nhiều phước nên không dính dịch, người xứ ấy có kháng thể miễn dịch trong người, cũng có kẻ tung thuyết âm mưu: “Người xứ ấy ăn ở dơ dáy đã lâu nên loài virus Corona kia cũng không nhằm nhò gì.”
 
 Cơn dịch ngày càng nặng nề,mọi người phải ẩn trốn trong nhà, mọi việc đình trệ và ngừng hết. Các nhà khoa học ngày đêm chạy đua chế thuốc nhưng chẳng có bất cứ dấu hiệu tốt đẹp nào. Thiên hạ bất ngờ khi nghe tin tông tông xứ tân thế giới bảo người ta:
 
 - Hãy dùng thuốc sốt rét để trị bọn Coronavirus kia.
 
 Thiên hạ nửa tin nửa ngờ, bọn virus thì cười nắc nẻ:
 
 - Cứ xài thuốc sốt rét thoải mái nhé người anh em!
 
 Người bệnh vẫn tăng, người chết vẫn cứ chết. Virus càng cười thì người chết càng nhiều, bất thần tông tông xứ tân thế giới laị khuyên:
 
 - Uống Lysol, hoặc đưa chất tẩy trùng vaò cơ thể để diệt virus.
 
 Lần này thì bọn virus covid-19 cười sặc sụa luôn, loài người vẫn hoang man lo sợ, các nhà khoa học loay hoay lo chế thuốc, các nhà chính trị ngày đêm chế thêm thuyết âm mưu mới, nhà sản xuất giấy, xà bông, khẩu trang, thuốc sát trùng thì hốt bạc lời to…riêng quê hương của loài tiểu yêu virus ấy thì vẫn hung hăng với chiến dịch” ngoại giao chiến lang” ra sức đổ thừa người này người kia, mạ lị chửi bới không chừa một ai, vừa lợi dụng thiên hạ ra sức chống dịch thì quậy biển đông, âm mưu độc chiếm để độc bá xưng hùng. Thế giới vẫn loay hoay chống dịch và cũng chẳng biết xử lý thế nào với lũ chiến lang kia.
 
Tiểu Lục Thần Phong
Ất Lăng thành, 5/2020

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà hiền triết người Ấn Độ Jiddu Krishnamurti (1895-1986) qua đời vào ngày 17 tháng 2 năm 1986 tại Ojai Valley, Quận Ventura, Nam California, Hoa Kỳ, nơi ông đã chọn làm quê hương thứ hai từ năm 1922 cho đến khi ông mất, dù ông không ở đó thường trực. Tính đến tháng 2 năm nay, 2024 đã tròn 38 năm kể từ ngày ông lìa bỏ trần gian. Krishnamurti là một trong những nhà hiền triết có sức ảnh hưởng rất lớn đối với nhân loại trong thế kỷ 20. Cuốn “The First and Last Freedom” của ông được Giáo sư Phạm Công Thiện dịch sang tiếng Việt từ trước năm 1975 ở Sài Gòn với tựa đề “Tự Do Đầu Tiên và Cuối Cùng” là một trong những cuốn sách tôi rất yêu thích đọc từ thời còn niên thiếu. Nhân tìm đọc lại một số bài giảng và bài viết của Krishnamurti, tôi tình cờ gặp được bài thơ “Song of the Beloved” (Bài Ca Về Người Yêu), nhưng không thấy ghi ông đã làm từ bao giờ. Có lẽ bài ca này ông làm vào những lúc về nghỉ ngơi tịnh dưỡng ở Ojai, vì bài đó nói lên lòng yêu thích thâm thiết của ông đối với thiên nhiên,
Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 với tác phẩm Vòng Đai Xanh. Sau này ông có thêm hai giải thưởng: 1) Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và 2) Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017 với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch...
Người viết chơi với Phạm Thiên Thư từ những năm học trung học đệ nhất cấp khoảng 58-59. Thư đến nhà tôi ở ấp Cả Trắc, khu Ông Tạ và chúng tôi thường kéo nhau ra quán cà phê vợt ở đầu ngõ đi vào ấp. Trong những lần uống cà phê, Thư nói sôi nổi về việc lập học hội Hồ Quý Ly, để thực hiện việc nghiên cứu, viết văn, làm thơ. Mục đích là tiến tới làm một tập san văn nghệ...
Chúng tôi vẫn biết Hoàng Cầm là người cùng quê và là bạn với một ông anh họ từ thời kháng chiến chống Pháp, nhưng không ngờ nhà thơ lại theo xe ra đón chúng tôi ở phi trường Nội Bài. Hôm đó Hoàng Cầm mặc một cái màu đỏ xậm trông rất hào hoa dù Hà Nội năm đó vẫn còn rất nghèo...
Mở đầu cho sê-ri bài viết về phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm thập niên 50 tại Bắc Việt Nam, là một tư liệu hiếm quý về/của nhà thơ Phùng Quán. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Nước Mỹ thế kỷ XX cống hiến cho nhân loại sự phong phú và đa dạng của các trào lưu, chủ đề và tiếng nói trong văn học. Một số tác giả và tác phẩm kinh điển đã xuất hiện trong thời kỳ này, góp phần phát triển truyền thống văn học có từ những thế kỷ trước. Riêng trong lĩnh vực tiểu thuyết, văn học hiện đại, thịnh hành vào đầu thế kỷ XX ở Châu Âu với kỹ thuật “dòng ý thức” trong tiểu thuyết của James Joyce và Virginia Woolf, lan rộng sang Mỹ, tìm cách tách rời các hình thức truyền thống thế kỷ XIX để cách tân và hình thành một dòng văn học mới với phong cách độc đáo, táo bạo và mở ra những cánh cửa thú vị bất ngờ cho người đọc đi vào ngôi nhà nghệ thuật. Kỷ nguyên văn học hiện đại phương Tây bắt đầu từ hai thập kỷ đầu của thế kỷ XX và, không thể nghi ngờ, Mỹ là quốc gia có những đóng góp to tát. Các tiểu thuyết gia lớn trong thời kỳ này, ta có thể nhắc đến F. Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway và William Faulkner.
Bước đi như vậy rõ ràng là không cần lưu dấu; nhưng chính là bước đi siêu tuyệt của bậc đại nhân, đại sĩ: không dấu tích mà lại tràn đầy công đức, lợi ích cho dân tộc, đạo pháp và nhân loại nhiều thế kỷ sau.
Một chương trong tiểu thuyết Đường Về Thủy Phủ của nhà văn Trịnh Y Thư...
Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ lớn của nước Việt trong thế kỷ 20. Ộng có địa vi cao cả trên thì văn đàn miền Nam và là người duy nhất được tôn xưng là thi bá...
Những phân đoạn này thuộc vào phần có tựa là “Dưới những gốc nho biển,” nằm trong tiểu thuyết “Đường về thủy phủ.” Tuy nhiên, cũng như phân đoạn [1-3] tôi đã nói ở trên, nó vẫn mang đủ những yếu tố của một truyện ngắn. Hẳn nhiên người đọc sẽ thấy rõ đây là dụng ý của tác giả. Và chỉ đến lúc đọc xong trọn “Đường về thủy phủ,” thì mới có một suy nghiệm tổng thể, và có thể bật ra cách ráp nối những mảnh hình, những sự kiện, và lóe sáng một sợi dây xuyên suốt tác phẩm qua bản chất của các nhân vật, để từ đó hiểu rõ hơn chủ đề của nhà văn Trịnh Y Thư...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.