Hôm nay,  

Đời Sống: Niềm Vui và Nỗi Buồn

3/10/202118:54:00(View: 3379)

(chuyện Nàng danh ca không có giọng ca)

C:\Users\vantruong\Documents\Hinh tham khao\image003-34.jpg
Nàng danh ca không có giọng ca Karla Burns và con tem Hattie McDaniel

 


1.

Đời sống, đó là ân sủng lớn nhất. Từ đời sống, người ta được hưởng thêm những ân sủng khác. Thí dụ như hạnh phúc. Thí dụ như nghệ thuật. Tôi có một anh bạn làm thơ. Thơ anh đến từ đời sống, giản dị như đời sống. Đọc thơ anh, nhiều khi tôi chảy nước mắt. Thứ nước mắt hạnh phúc, vì nó gợi lên trong tôi cái đẹp của nghệ thuật. Cùng lúc, nó nâng đời sống lên trên những thô nhám thường ngày. Niềm vui, chưa hẳn đã đem lại thứ hạnh phúc trọn vẹn, bền bỉ. Nhưng nỗi buồn, một khi đã hóa thân thành nghệ thuật, nó đem lại cho người ta một cảm giác dễ chịu. Điều đó giải thích tại sao những bài hát được ưa thích nhất thường là những bài hát buồn.

Tôi biết một người ca sĩ. Nghe cô hát, cảm tưởng của một vũ trụ đang vỡ òa ra từ lồng ngực của cô. Cái giọng hát không cần đến bất cứ phương tiện trợ thanh nào. Nó lan tỏa ra mọi ngõ ngách của tâm hồn, nó tạo dựng nên một thế giới âm thanh mà người nghe hằng khao khát, hằng mơ ước trong những giấc mơ nửa tỉnh nửa thức. Khi cô hát, cô vượt ra khỏi đời sống. Khi đó, cô ca sĩ chỉ sống bằng chính âm thanh phát ra từ lồng ngực của mình. 

Người ca sĩ ấy, đã từng đứng trên những sân khấu vĩ đại, rực rỡ của sàn diễn Broadway. Đã từng đón nhận những tiếng vỗ tay vang trời từ nhiều tầng lớp khán giả khác nhau. Đã từng đoạt nhiều giải thưởng lớn nhỏ. Đã từng nếm đủ mùi danh vọng. Nhưng với cô, hạnh phúc lớn nhất là được hát, được đem hạnh phúc từ tiếng hát của mình đến cho người nghe. Cô tin rằng đó là lý do cho sự hiện hữu của cô trong đời sống này.

Mỗi đời sống đều giấu trong mình  một định mệnh. Nhiều khi rất khắc nghiệt. Người ca sĩ tỉnh lẻ, sau bao miệt mài phấn đấu, đã thành danh và trở về thành phố quê hương nơi cô mở mắt chào đời mấy chục năm trước, chỉ để khám phá ra mình mang trong cổ một cái bướu to bằng “diện tích của tiểu bang Texas”. Vị bác sĩ, một người bạn thời thơ ấu vẫn bám trụ thành phố tỉnh lẻ, đã cho cô biết như vậy. 

Nghe bản án, cô ca sĩ biết rằng con chim đã chết. Vì tiếng hát đã không còn được cất lên. Vì nghệ thuật đã thôi hiện hữu. Cô sinh ra mang kiếp chim đến từ núi lạ, ngứa cổ hót chơi, dè đâu đã tự chuốc lấy cho mình cái định mệnh của đời sống. Cô nhớ mình đã từng hứa với mẹ sẽ là một cô giáo sống an vui cùng bầy trẻ thơ đến trường mỗi ngày. Cô thậm chí đã hoàn tất xong chương trình đại học cần thiết để làm vui lòng mẹ. Nhưng cô cũng không quên mình thừa hưởng trong huyết quản niềm đam mê âm nhạc của người cha, một nhạc sĩ dương cầm. Hơn nữa, ông còn truyền cho đứa con gái yêu hơi nóng hừng hực của nhạc Jazz. Cái hơi nóng ấy, đã đánh bạt đi ước muốn tha thiết của người mẹ. Tốt nghiệp đại học, thay vì nhận công việc giảng dạy tại một trường ở địa phương, cô đã bỏ mặc người mẹ trong căn nhà vắng vẻ, tung đôi cánh chim non đến thành phố đô hội New York. Tiếng hát của cô gái trẻ đã làm rung chuyển bức tường các tòa nhà cao ngất ngưởng, khiến người đi đường phải dừng lại nghe ngóng. Tài năng, tham vọng, sự may mắn đã đẩy cô lên trên đỉnh danh vọng.

Cảm tưởng đầu tiên của người ca sĩ tội nghiệp khi biết mình không thể hát được nữa là hối hận. Hối hận vì cô đã cãi lời mẹ, mang lấy nghiệp cầm ca vào thân, để bây giờ sống cũng coi như chết. Đã quá trễ để cô làm lại cuộc đời. Vả chăng, người mẹ già đã qua đời trong lúc cô mải mê với ánh đèn sân khấu trên khắp các sàn diễn thế giới. Nhưng trong nhiều ngày nằm trên giường bệnh hồi sức sau cuộc giải phẩu, cô hiểu rằng tất cả những gì xảy ra là định mệnh đời mình. Đời sống không bao giờ chỉ cho đi mà không lấy lại. Cô sẵn sàng chấp nhận sự cho đi lấy lại ấy không một chút trách móc, oán hờn.

Nhưng cô vẫn muốn hát trở lại. Chỉ khi hát, cô mới sống đời sống thực của mình. Và cảm thấy hạnh phúc. Nhưng bác sĩ bảo rằng để có thể hát trở lại, cô cần đến một phép lạ. Mà phép lạ không phải lúc nào cũng có sẵn. Mặc cho con chim ngứa cổ, nó không thể hót, dù là hót chơi, dù là hót để mang đến hạnh phúc cho đời.

Đời mang đến ân sủng. Đời cũng lấy đi những ân sủng. Đôi khi không một lời cảnh báo.

2.


Hãy nghĩ đến những điều mà bạn có thể nghĩ.

Hãy tưởng tượng những điều bạn có thể tưởng tượng

Hãy mơ ước những điều bạn có thể mơ ước

Khắp cùng trời cuối đất. Khắp mọi  nẻo âm u của những ngóc ngách tâm hồn.

Chỉ cần bạn dám làm những điều bạn có thể.

Có nhiều lúc, cô ca sĩ, nhớ đến những câu thơ đã từng gợi lên trong cô niềm thao thức lên đường thưở xa xưa, dàn dụa nước mắt hát thầm trong đầu bài hát xưa mà nghe như âm thanh bài hát vẫn vang vọng khắp trong căn phòng đầy bóng tối.

Hát hay là chết! Với cô ca sĩ mất giọng, đó không phải là sự lựa chọn, mà là một mệnh lệnh đến từ định mệnh cuộc đời cô. Với người ca sĩ, hát là hơi thở, là oxy. Không còn hát được nữa, làm sao cô sống? Làm sao cô có lý lẽ để sinh tồn.

Hãy tưởng tượng những điều bạn có thể tưởng tượng.

Cô nhớ đến người cha nhạc sĩ, nằm hấp hối trên giường bệnh, mà hai bàn tay thỉnh thoảng vẫn múa may trong khoảng không trước mặt, như thể đang nhảy múa trên những phím dương cầm, nét mặt rạng rỡ. Bây giờ thì cô hiểu ý nghĩa của những cử động ấy, ý nghĩa của nét mặt rạng rỡ ấy. Ông đang say sưa sống với những âm thanh tuyệt hảo của nghệ thuật trên mặt phím dương cầm tưởng tượng. Cái thể xác tạm bợ đang chết dần mòn của ông đâu có thể cản nổi ông để cho trí tưởng tượng bay cao, bay về những năm tháng đẹp nhất đời ông trên những sân khấu tràn ngập khán giả lắng nghe từng âm thanh kỳ diệu của âm nhạc. Và trong căn phòng im lặng, vẫn vang lên từ ký ức của người nhạc sĩ bài hát ưa thích nhất năm nào, một bài hát buồn, bài hát về một tuổi thơ côi cút nghèo khổ.

Khác với người cha, tuổi thơ cô ca sĩ không đến nỗi côi cút nghèo khổ. Phải nói ngược lại mới đúng. Và trong hạnh phúc một tuổi thơ đẹp đẽ, đã ẩn chứa những mầm mống của bất hạnh. Như con thiên nga, sau điệu vũ đẹp như mơ trên mặt hồ vắng vẻ, đã lăn ra chết thật thảm thiết.

Bài hát cô ưa thích nhất từ những ngày thơ ấu, bài hát cô đã hát hàng trăm, hàng ngàn lần trên sân khấu rực rỡ ánh đèn: Giã biệt chim non (Bye Bye Birdie). Liệu cô có vượt lên trên được số phận nghiệt ngã của con thiên nga, của con chim non thơ ấu ấy không ?

Các bác sĩ cảnh cáo: ngừng hát bây giờ thì có triển vọng một ngày tiếng hát trở lại, có nghĩa là phép lạ có thể xẩy ra. Nếu không, sự nghiệp của cô đến đây là hết, sẽ không bao giờ có phép lạ.

Thế là hết. Cô ca sĩ buồn bã thở dài. Trong nỗi tuyệt vọng chết người ấy, hai bàn tay chỉ còn da bọc xương của người cha nhẩy múa trên mặt phím dương cầm tưởng tượng năm xưa hiện ra trước mặt cô. Lạ lùng thay, âm thanh bài hát cũ tràn ngập cả căn phòng. Cô cất tiếng say sưa hát theo. Không một chút cảm giác đau đớn từ cổ họng vừa qua cuộc giải phẩu.


3.


Bẵng đi một thời gian, câu chuyện người ca sĩ mất giọng không còn làm tôi chú tâm lắm, dù bức ảnh tôi và cô chụp chung vẫn hàng ngày xuất hiện trên màn hình máy computer trong phòng làm việc, kỷ niệm một buổi phát hành tem đặc biệt của Bưu điện Hoa Kỳ. Dạo ấy, nhân dịp cô về lại thành phố Wichita, cũng đúng lúc  Sở Bưu Chính tổ chức buổi phát hành con tem đặc biệt vinh danh Hattie McDaniel (1892-1952), người nữ diễn viên da đen đầu tiên đoạt giải thưởng điện ảnh uy tín Oscar với vai Mommy trong cuốn phim lừng danh:
Cuốn theo chiều gió của đạo diễn Victor Fleming, phỏng theo một tác phẩm tiểu thuyết cổ điển cùng tên của nhà văn nữ Margaret Mitchell. Hattie McDaniel vốn sinh trưởng ở Wichita, Kansas. Lẽ tất nhiên, cô ca sĩ đã được mọi giới chức thành phố hân hoan đón tiếp. Đó là lần đầu tiên tôi được nghe một tiếng hát để lại dấu ấn thật mạnh mẽ như thế trong tôi. Nghe tiếng hát ấy, người ta không thể chú tâm đến bất cứ điều gì khác. Đó là thứ âm thanh có thể xuyên qua mọi bức tường, có thể làm rung chuyển không khí, có thể làm xao động mọi trái tim. Đọc tiểu sử của cô, tôi không ngạc nhiên lắm về sự thành công mà cô gặt hái được. Sau buổi lễ, tôi được hân hạnh chụp chung với cô một bức hình. Với tôi, để làm kỷ niệm. Với cô, thêm một hình ảnh người mộ điệu trong bộ sưu tập, mà người mộ điệu này hơi khác lạ ở chỗ là một gã đàn ông châu Á, đến từ một nơi rất xa lạ với cô.

Một hôm, giở tờ báo ngày của thành phố, tôi thấy hình của cô ca sĩ trên trang âm nhạc, nghệ thuật. Cô đứng trước một nhóm học sinh, tay đánh nhịp, mắt nhắm lại, miệng cô mở rộng như đang nhả ra một câu hát. Nhóm học sinh, cả trai lẫn gái gồm 26 người, tất cả hướng mắt về cô. Họ đang ráo riết tập luyện cho chương trình văn nghệ cuối năm tại một trường trung học Công giáo lớn của thành phố. 

Phép lạ vẫn chưa đến với cô ca sĩ bị mất giọng hát. Nhưng cô đã tìm lại được tiếng hát ở những người trẻ tuổi đang say sưa hát theo với sự hướng dẫn của cô. Miệng cô khi mím, khi mở, khi o tròn, khi ra vẻ rướn lên. Nhưng âm thanh lại chỉ phát ra từ cửa miệng 26 người học sinh đứng trước mặt. 

Dứt bài hát, bằng một giọng nói yếu ớt đến độ phải nín thở để nghe, cô nói với những học trò: Đó là bài hát của cô. Bài hát của đời cô. Câu chuyện của đời cô.

Trong buổi trình diễn chính thức, 26 đứa trẻ ấy, đã thay cô ca sĩ, làm rung chuyển không khí. Và làm xao động bao trái tim người nghe. Phía trong hậu trường, người ta nhìn thấy cô ca sĩ khuôn mặt dàn dụa nước mắt.

Đọc xong câu chuyện, tôi tin rằng mình vừa thấy một phép lạ. Phép lạ này đến từ đời sống, chứ không phát xuất từ bất cứ niềm tin tưởng linh thiêng nào.

4.


Đời sống có lúc thật nhẫn tâm. Kể cả sự nhẫn tâm ấy, cũng vẫn là ân sủng. Nếu không thế, làm sao con người có thể có cơ hội (và động lực) khám phá hết cái muôn hình muôn vẻ của đời sống chung quanh. Từ những khắc nghiệt của định mệnh con người, nỗi buồn kết tinh và hóa thân thành hạnh phúc. Từ cuộc giải phẩu lấy đi cục bướu cổ nặng gần 5 ki lô, nàng danh ca đã bị mất đi giọng ca, lẽ sống đời mình, để rồi lại thăng hoa trong từng tiếng hát thế hệ tiếp nối.

Từ đó, đời sống trở thành vĩnh cửu.■

T.Vấn

(Trích CÕI NGƯỜI, sắp xuất bản)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Không hiểu sao, khi những giòng nhạc trong bài Tuổi Đá Buồn của TCS qua tiếng hát của ca sĩ Khánh Ly vang lên từ máy phát thanh ở rạp hát của Bowers Museum, lòng tôi bỗng nhiên rưng rưng. Cho dù lúc ấy, nhân vật chính là nữ ca sĩ Khánh Ly chưa xuất hiện trên sân khấu trong buổi tối kỷ niệm Sinh Nhật 80 tuổi của bà hôm thứ sáu tuần trước. Cho dù tôi đã nghe rất nhiều lần tiếng hát Khánh Ly từ lúc rất trẻ khi còn ở trong nước, hay những năm sau này ở Mỹ khi về già. Có lẽ tôi xúc động vì ý nghĩa của buổi tối kỷ niệm ngày sinh nhât của môt người nghệ sĩ đã hơn 60 năm ca hát cho đời và tạo cho mình môt chỗ đứng riêng với giọng hát đặc biệt của mình.
Tôi thường gọi bạn tôi “nghệ sĩ trầm lặng” vì biết bản tính anh từ ngày ở quân trường trên Đà Lạt, cách nay gần sáu thập niên. Khi anh bước vào con đường văn học nghệ thuật coi như “người bạn tri kỷ” và sự giải trí thanh tao trong cuộc sống nơi xứ người. Đức tính khiêm nhường và trầm lặng của anh, với tôi, rất quý vì phù hợp với tâm hồn. Câu nói của triết gia Pháp cho rằng những người thường khoe khoang, khoác lác thường với tâm hồn rỗng tuếch vì đầu óc họ chỉ có vậy. Và câu nói nhà bác học Blaise Pascal từ thế kỷ XVII “Le moi est haïssable” (Cái tôi đáng ghét) chứng minh cho điều đó. Vì tình trạng sức khỏe không cho phép nên Dương Viết Điền không tiếp tục những tác phẩm còn dang dở như nỗi niểm của anh trong tập cuối Nhật Ký Lúc Chiều Tà!
Nói tới tình khúc Từ Công Phụng phải nói ngay về “Bây Giờ Tháng Mấy”. Đó là ca khúc đầu tay của anh từ khi còn ngồi ghế trường trung học. Cú đầu là coup de maitre. Vậy mà chút xíu nữa ca khúc này không được nhìn thấy mặt trời. Trong bài viết “Mãi Mãi Bên Em” của nhà văn Hồng Thủy, có đoạn kể lại như sau: “Sáng tác bài “Bây Giờ Tháng Mấy” xong, anh Phụng chỉ định để hát chơi chứ không có ý muốn phổ biến. Một buổi chiều anh mang đàn ra ngồi ở hành lang đại học xá, vừa đàn vừa hát bài “Bây Giờ Tháng Mấy”. Tiếng hát theo gió, lọt vào phòng của một anh bạn gần đấy. Anh bạn nghe hay quá bèn nhất định đòi mang bản nhạc đi bán cho nhà xuất bản. Sau khi mua lại bản quyền, nhà xuất bản cho phổ biến ngay và bản nhạc được mọi người đón nhận nồng nhiệt. Chỉ một thời gian ngắn, bản nhạc được xếp vào danh sách những bản nhạc nổi tiếng.
Vào năm 1998, lần đầu tiên tôi được đi Pháp, đến kinh đô ánh sáng Paris mà thuở bé chỉ dám nghĩ đến trong mơ. Đến Paris, người bạn Pháp hỏi tôi muốn đi viếng những danh lam thắng cảnh nào. Bên cạnh tháp Effeil, tôi nói muốn đến Ga Lyon, và thăm vườn Lục Xâm Bảo.
Vào chiều ngày Chủ Nhật 27/10, tại phòng trà Blue, Lê Sỹ Dự Entertainment sẽ gởi đến khán giả yêu nhạc thính phòng một chương trình nhạc với chủ đề Cung Trầm Khúc. Nhân dịp này, nhạc sĩ Sỹ Dự đã trò chuyện với Việt Báo về việc chuẩn bị cho Cung Trầm Khúc, cũng như những hoài bão âm nhạc của mình trong tương lai.
Khi nói đến âm nhạc, người ta thường liên tưởng đến khái niệm về “tâm hồn” hay “cảm xúc”. Khi nói đến giáo dục lại thường liên kết với “trí tuệ”. Một bên là nghệ thuật, một bên là tri thức. Một bên là những chàng nghệ sĩ, một bên là những nhà mô phạm. Thực ra hai lĩnh vực này có nhiều khi đan lẫn, kết hợp với nhau. Âm nhạc là một ngành học với học vị lên tới tiến sĩ, không thua kém gì học bác sĩ, kỹ sư. Và khoa học đã chứng minh từ lâu rằng học âm nhạc góp phần phát triển khả năng trí tuệ toàn diện cho trẻ em.
Cách nay 70 năm về trước, khoảng năm 1954-1955 trước cuộc di cư vĩ đại do hiệp định Genève ký kết. Chúng tôi sống ở Hải Phòng, có lúc ở Hà Nội, tùy theo công việc làm di chuyển của ông thân tôi. Khi tôi được khoảng 9, 10 tuổi, có lần tôi được theo ba tôi đến rạp hát Trần Mỹ Ngọc ở phố Tám Gian, thành phố Hải Phòng. Hôm đó chúng tôi coi hát tuồng và chèo cổ, tuồng “Tứ Trạng Đồng Khoa“ có cô Bích Thuận, cô Kim Chung, cô Bích Sơn và kép Khánh Hợi thủ những vai chánh, họ diễn rất xuất sắc, truyền cảm. Tôi theo dõi và say mê bốn ông trạng nguyên đồng khoa và tôi ưng ý nhất là ông trạng do cô Bích Thuận lồng vai. Trên sân khấu, mà tôi ngây ngô, tưởng như trong cuộc đời, họ đẹp quá, đẹp về đạo đức, ngôn ngữ qua cách đối đáp thưa gửi và cử chỉ lễ phép giao tình… không phải mình tôi mê mẩn đâu nhe, mà toàn rạp hát cũng vậy, vãn tuồng mà khán giả không chịu đứng lên ra về ngay, còn nấn ná, còn ngẩn ngơ…
Ở cõi đời có nhiều điều khiến mình phải dừng và chậm lại để mà lắng nghe. Như nghe tiếng chim hót ngoài vườn rực nắng, nghe tiếng mưa đêm rả rích quện với tiếng gió chẳng hạn. Nhưng đó chỉ là yếu tố ngoại cảnh làm chạnh lòng những ai đang có nỗi niềm bên trong. Chúng chẳng sánh được với những cảm xúc phát xuất từ đáy lòng thi sĩ biến thành thơ, để rồi thơ chạm vào tim người nhạc sĩ phát ra nốt nhạc, tiếng nhạc làm thổn thức giọng hát và ngân vang trong lòng người
Có lẽ đã đến lúc cần đặt câu hỏi về sự dễ dãi của khán giả Việt? Như vấn đề đã nhiều lần được đặt ra trong lãnh vực âm nhạc, với các cô ca sĩ trong nước gầm rú phô diễn kỹ thuật mà không chuyển tải được nội dung, cảm xúc của bài hát, phim Việt còn nặng tính phô trương kỹ thuật, nhét tất cả mọi chiêu, mọi nước bước, đường đi, ý tưởng vào cùng một vở kịch, rồi nhấn hết cỡ âm lượng, dung lượng trấn áp khán giả - hệt như việc đãi ăn một bữa buffet quá no nê, để khách hài lòng với số lượng mà quên để ý đến phẩm lượng.
Nếu nói một cách ngắn gọn nhất, thì tui sẽ nói như thế này: Hình như Mai là cuốn phim Việt Nam hay nhất với tui từ trước đến giờ thì phải. Còn nếu nói dài thì nói luôn là tui coi phim Việt Nam không nhiều. Hồi nhỏ không có gì coi thì tivi chiếu gì coi đó, trong đó có phim VN. Sao mà nó cứ chầm chậm, lây lất. Ngột ngạt. Nặng nề. Đến lúc diễn viên có thể nói nhanh hơn một chút, cuộc sống chuyển động lẹ hơn một chút, thì tui lại thấy sao những gì mà người ta nói, người ta làm, người ta sống cứ như ở một thế giới nào đó mà tui không tồn tại, nó cứ giả giả gượng gượng như "plastic". Rồi thì cũng đến lúc tui được xem nhiều cuốn phim Việt Nam hay ho hơn, tử tế hơn trong các lần VAALA tổ chức Đại hội điện ảnh Việt Film Fest. Nhưng bàng bạc trong đó, vẫn cứ thấy lẩn quẩn một nỗi gì khó diễn tả lắm. ‘Bi ơi, đừng sợ!’ (mặc dù tui coi tui sợ muốn chết), ‘Trăng nơi đáy giếng’, ‘Song Lang’,… nhiều quá không nhớ hết tựa… ‘Mai’ thu hút tui từ cảnh đầu tiên...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.