Hôm nay,  

Nguyễn Đồng: Những Vệt Màu Còn Lại Của Một Thời Vàng Son

04/04/202500:00:00(Xem: 1824)

DN2
 
Sự ra đi lặng lẽ của họa sĩ Nguyễn Đồng là một một dư vang trầm mặc trong ký ức nghệ thuật Miền Nam – một miền nghệ thuật từng sống động, tự do, nơi mà hội họa được đặt ngang hàng với văn học, triết học, và cả chính trị. Ông không những là một trong những họa sĩ tiêu biểu của thời Đệ Nhị Cộng Hòa, mà còn là nhân chứng của một nền văn hóa từng rực rỡ trước khi bị chôn vùi dưới lớp bụi chiến tranh và chính trị hóa nghệ thuật.

Nguyễn Đồng – với ngôn ngữ tạo hình đầy bản sắc, vẽ nên những con người u uẩn, ánh sáng khúc xạ từ tâm tưởng – đã vượt qua cái đẹp đơn thuần. Tranh của ông không phải để ngắm, mà để chiêm nghiệm. Trong một thời kỳ hội họa Sài Gòn chưa bị thị trường điều tiết, ông là người vẽ vì niềm tin, vẽ như một chứng đạo, chứ không phải như một người làm nghề.

Từ sau biến cố 1975, ông lưu lạc sang Mỹ, tiếp tục sống bằng nghề cũ, nhưng không ồn ào, không phô trương, như chính cách ông rút lui khỏi sân khấu đời sống nghệ thuật ồn ã. Thế nhưng, sự vắng mặt của ông trong dòng chảy chính thức của cộng đồng không phải là dấu hiệu của lãng quên, mà là minh chứng cho một tình trạng đáng buồn: hội họa Việt Nam tại hải ngoại, đặc biệt tại Little Saigon, đã và đang bị bỏ quên, bên lề.

Hội Họa Tại Hải Ngoại – Tiếng Thở Dài Trong Căn Gác Tối

Không giống như văn học – vốn có một tầng lớp độc giả trung thành và còn hy vọng vài thế hệ cầm bút kế thừa – hội họa tại hải ngoại là một tiếng thở dài bị bóp nghẹt giữa đô thị hóa, kinh tế thị trường và sự lệch chuẩn thẩm mỹ của công chúng. Little Saigon là trung tâm văn hóa của người Việt lưu vong, nhưng không có lấy một bảo tàng nghệ thuật Việt, không có một không gian triển lãm phi thương mại chuyên nghiệp nào dành riêng cho hội họa.
Những gallery nếu có, phần lớn phục vụ cho nhu cầu... trang trí nội thất. Những tác phẩm được chọn treo thường phải “hợp mắt”, “dễ bán”, “đẹp kiểu tình cảm gia đình.” Hội họa phản kháng, hội họa biểu hiện, hội họa siêu thực, trừu tượng, những thể loại mang ngôn ngữ thẩm mỹ sâu sắc và mang tính triết lý – đều bị xếp vào hàng “khó hiểu”, “không bán được.”

Giới họa sĩ sống trong cảnh lặng lẽ, không báo chí chuyên ngành, không phê bình nghệ thuật, không sự hỗ trợ từ cộng đồng. Hội họa – vốn đã là một lĩnh vực đơn độc trong bất kỳ xã hội nào – ở hải ngoại/Little Saigon càng đơn độc hơn khi thiếu những “đối thoại thẩm mỹ.” Đó là chưa kể, nghệ sĩ thị giác thường không được mời gọi vào những sinh hoạt văn hóa lớn, vốn chỉ ưu tiên ca nhạc, văn học, hay diễn thuyết chính trị.


Khắc Nghiệt Hơn Văn Học – Vì Không Có Chữ Nghĩa Làm Gạch Nối

462950765_8586115874768347_385250546820878402_n
Văn học Việt hải ngoại còn có sách in, có báo chí văn nghệ, có các tổ chức như Văn Bút, có những diễn đàn như Văn Học, Khởi Hành, Hợp Lưu… (dù giờ đây đã ít nhiều tan biến), có những nhà văn có thể "viết về nhau." Hội họa thì khác. Họa sĩ Việt tại Mỹ sống như những nhà ẩn tu– vẽ trong tịch mịch, ít ai viết về mình, ít ai treo tranh họ. Và họ, cũng ít khi lên tiếng cho nhau.
Bấy giờ, không có một cộng đồng phê bình nghệ thuật nào có thể nâng họa sĩ ra khỏi sự cô đơn.

Nguyễn Đồng là một trong số ít họa sĩ được nhắc đến trong một vài bài viết hàn lâm hay hồi ký của các nhà văn cũ. Nhưng thế hệ họ đã gần như khép lại. Không ai còn viết tiếp những phác họa đời sống nghệ thuật lưu vong.

Giờ đây, khi ông ra đi, báo chí cộng đồng đưa tin như một "tin tức," nhưng không có phân tích, không có nhận định, không có "di cảo thị giác." Nếu một nhà văn mất đi, ít nhất còn lại những bài văn, hồi ký, những tập truyện in, những trích đoạn chia sẻ. Nhưng một họa sĩ mất đi – nếu không có ai giữ lại tranh ông, nếu không có một không gian lưu trữ tác phẩm – là cả một thế giới ngôn ngữ hình ảnh sụp đổ.

Hồi Sinh Một Di Sản, Hay Chấp Nhận Lạt Phai?

Câu hỏi đặt ra: phải chăng chúng ta – cộng đồng người Việt hải ngoại – đã mặc nhiên để mất đi một kho tàng nghệ thuật tạo hình mà lẽ ra phải được gìn giữ như một phần di sản? Việc này không riêng chỉ liên quan đến nghệ sĩ. Nó liên quan đến nhận thức cộng đồng về vai trò của nghệ thuật, của cái đẹp, của những gì không thể mua bán bằng tờ giấy in mực.

Nếu không có những trung tâm trưng bày – ít nhất cũng là một không gian độc lập, nhỏ thôi – thì tranh Nguyễn Đồng, và các họa sĩ như Đinh Cường, Khánh Trường, Hồ Thành Đức, Mai Chửng, hay Trịnh Cung, Nguyên Khai, cho đến thế hệ chị Ann Phong, anh Nguyễn Việt Hùng v.v.... sẽ biến mất dần khỏi ký ức công cộng. Nếu không có phê bình nghệ thuật – thì công chúng sẽ tiếp tục nhầm lẫn giữa một bức tranh in canvas số lượng lớn với một tác phẩm gốc mang tâm hồn của cả một đời người.

Little Saigon cần một cuộc phục sinh thị giác. Một không gian đối thoại nghệ thuật, vượt khỏi thẩm mỹ trang trí, vượt khỏi chủ nghĩa tiêu thụ. Sự ra đi của họa sĩ Nguyễn Đồng, cùng lúc Hồ Thành Đức có thể là hồi chuông sau cùng để chúng ta nhìn lại: nền hội họa lưu vong không mất vì thiếu tài năng, mà vì thiếu công chúng biết thưởng lãm và gìn giữ.

Chốn Bụi, 27 tháng Ba, 2025

Uyên Nguyên
  

Ý kiến bạn đọc
09/04/202505:49:56
Khách
Tin buồn nhưng phân tích có giá trị... Cũng là những tiếng kêu cứu não lòng về một bộ môn mà người thưởng ngoạn phải học hỏi nhiều và sở hữu tác phẩm thì phải tốn tiền...
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thương nhớ. Cảm động. Ngậm Ngùi. Và ước mơ một ngày quê nhà sẽ có dân chủ, khi đó Sài Gòn sẽ được hồi phục tên cũ. Đêm nhạc Trần Chí Phúc với chủ đề Sài Gòn Một Thoáng 50 Năm vào chiều Thứ Bảy 19/4/2025 đã chạm rất ngọt ngào và cay đắng vào trái tim của những người con Sài Gòn.
“Năm nay mang một ý nghĩa đặc biệt sâu sắc, là cột mốc 50 năm kể từ ngày những người tị nạn Việt Nam đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ. Nửa thế kỷ kiên cường, dựng xây và tái định nghĩa thế nào là người Mỹ gốc Việt. Trong suốt hành trình đó, nghệ thuật kể chuyện đã đóng một vai trò thiết yếu—lưu giữ lịch sử, mở rộng tương lai, và thắt chặt cộng đồng. Chính vì thế, chúng tôi vô cùng tự hào được mang đến cho quý vị VietBook Fest năm nay—không chỉ một lễ hội sách, mà một không gian để kết nối, đối thoại và tôn vinh Bản Sắc Người Việt 50 Năm.”
Ngày Thứ Bảy 29 tháng 3 năm 2025 tại Citadel Art Gallery, một buổi Ra Mắt Thơ kèm thêm Triển Lãm đã được tổ chức rầm rộ và được sự hưởng ứng nồng nhiệt của khách thưởng ngoạn. Buổi hội ngộ văn học, nghệ thuật hy hữu này có sự góp mặt của nhiều tác giả với nhiều hình thái nghệ thuật như hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, văn, thơ, sách, và âm nhạc. Gần 200 quan khách hiện diện đã làm bầu không khí nghệ thuật bừng sáng.
Buổi ra mắt tuyển tập "Nguyễn Thị Khánh Minh, Bằng hữu & Văn chương – Tạp chí Ngôn Ngữ ấn bản đặc biệt" cho thấy sự đóng góp, quý trọng của nhiều nhà văn, nhà thơ đối với nhà thơ nữ này. Độ dày sách này là 544 trang, dày gấp nhiều lần các thi tập trước kia của nhà thơ nữ này. Nơi đây cũng lưu giữ những ký họa, tranh bìa, thủ bút, thơ tặng, bình luận từ hơn 40 văn nghệ sĩ cho Nguyễn Thị Khánh Minh, trong đó có các tên tuổi lớn như Thầy Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Đinh Cường, Đinh Trường Chinh, Trịnh Cung, Trương Đình Uyên, Lê Thánh Thư, Đỗ Hồng Ngọc, và nhiều người khác.
Họa sĩ Hồ Thành Đức sinh năm 1940 tại Đà Nẵng, Quảng Nam. Ông tốt nghiệp Cao Đẳng Quốc Gia Mỹ Thuật Sài Gòn, sáng lập viên của Hội Họa sĩ Trẻ Việt Nam (1968-1975), Giáo sư hội họa Viện Đại Học Vạn Hạnh (1969-1975), Khoa trưởng ngành Họa Thực Tiễn tại Đại Học Phương Nam (1974-1975). Ông đã có rất nhiều cuộc triển lãm trong và ngoài nước. Tranh của ông cũng có mặt tại nhiều viện bảo tàng danh tiếng trên thế giới trong đó phải kể đến Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Smithsonian tại thủ đô Washington. Tranh của ông được đánh giá cao bởi nhiều cây bút phê bình hội họa trong và ngoài nước..
“Để có thể nối kết đồng cảm ý nghĩa và tình tự của một ca khúc với người nghe, người hát cần hiểu ca từ sâu sắc và rung động với tâm tình trong lời và nhạc.”
Một lần tôi bất chợt nghe Khánh Ly hát: Ta không thấy em từ bấy lâu nay, mùa mưa làm rừng đước dâng đầy/trên cao gió hát mây như tóc/tràm đứng như em một dáng gầy. Mỗi con lạch là mỗi xót xa, mỗi giòng sông là mỗi tuổi già, thành phố đâu đây khuất hình khuất dạng, cuộc chiến già nua theo mỗi tiếng ca…. (Thơ U Minh- Nguyễn Tiến Cung, Phạm Duy phổ nhạc.) Tiếnh hát của chị rời rạc, kể lể. Bài hát không có tiếng súng tiếng bom nào cả, nhưng qua cái giọng nhừa nhựa chẫm rãi của chị ta thấy như những trang sách viết về chiến tranh đang lật từng tờ và người lính đó đang bì bõm trong rừng đước U Minh. Anh không bao giờ còn gặp lại người yêu nữa. Anh tử trận hay người yêu đã bỏ đi xa? Kết thúc nào cũng buồn cả. Tôi nghe đi nghe lại nhiều lần đoạn hát giản dị này và lúc nào nghe cũng ứa nước mắt.
Lần đầu tiên tôi có cơ hội được một mình ngồi trò chuyện với cô Khánh Ly là một ngày của Tháng 3 cách đây tròn 15 năm – khi được sếp phân công phỏng vấn viết bài về sự có mặt của cô trong một đêm nhạc mang tên “Du Mục” của nhóm The Friends. Tôi vẫn nhớ như in lần đầu gặp gỡ đó – giữa Khánh Ly – người được xem như một trong những huyền thoại của làng âm nhạc Việt Nam, và tôi – một phóng viên mới bước vào nghiệp cầm bút chưa đầy 2 năm. Nơi cô hẹn tôi là quán phở Nguyễn Huệ của chú Cảnh ‘Vịt’ (chú Cảnh đã bỏ trần gian đi rong chơi ở chốn xa lắc xa lơ nào cũng đã vài năm). Hôm đó, chồng cô, nhà báo Nguyễn Hoàng Đoan, chở cô tới. Trong hơn một tiếng đồng hồ, tôi đã hỏi cô nhiều câu – phần lớn chả ăn nhập gì đến chương trình cô sắp tham gia – mà chỉ là những câu hỏi tôi tò mò muốn biết về Khánh Ly – một người được bao người ngưỡng mộ, bao người mơ ước được gặp mặt – lại đang ngồi đối diện tôi, cùng tôi uống cà phê trong quán phở, và làm tôi bị say thuốc lá
Người đàn bà ấy, đứng trên sân khấu với mái tóc buông dài, đôi chân trần và một ánh mắt không có gì ngoài sự thản nhiên. Người ta gọi bà là "nữ hoàng chân đất," nhưng bà không phải là hoàng hậu của bất cứ điều gì ngoài nỗi buồn nhân thế. Đó là sự thản nhiên của một người đã thấy hết những gì cuộc đời có thể mang lại: những đỉnh cao, những vực sâu, những ngày tháng của ánh hào quang và những đêm dài của sự cô đơn tuyệt đối. Nếu có một người nào hát về sự mất mát mà không làm cho nó trở nên ủy mị, nếu có một người nào hát về những điều tan vỡ mà không cần phải gào thét lên, thì đó là Khánh Ly.
Và đêm qua, chân dung ấy đã mang bao tâm hồn, bao thế hệ cùng trở lại bên nhau. Anh biết không, trong khuôn viên rộng lớn của Bowers Museum, em đã nhận ra, và tìm về với bao nhiêu gương mặt thân quen mà đã từ lâu em không gặp. Họ là những tên tuổi lớn của mọi lĩnh vực từ văn chương, âm nhạc cho đến điện ảnh... Họ là những vị đã bước qua tuổi tám mươi, đến những em nhỏ chưa tròn đôi mươi. Họ là những nhân chứng của cuộc chiến tranh. Như một định mệnh, những tâm hồn ấy lại ngồi bên nhau để cùng nghe tiếng hát vang lên: “Tình ngỡ chết trong nhau, nhưng tình vẫn rộn ràng, Người ngỡ đã quên lâu, nhưng người vẫn bâng khuâng” (Trịnh Công Sơn)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.