Hôm nay,  

Đứng Mãi Trong Tranh

3/27/202111:19:00(View: 3716)

blank

                Tranh Nghiêu Đề 



Tôi nhỏ xíu, tôi bé xíu.

Cũng chẳng có nghĩa những bóng lớn của Hội Họa Sĩ Trẻ đó, đã che hết dáng tôi. Cô học trò xinh xinh, chen chân, nhón gót xem tranh trong những chiều trốn lễ, bỏ nhà thờ…

Tôi mượt mà, tóc bay và mắt ướt, tôi thơ mộng như những thiếu nữ trong tranh.

Tôi nhìn thấp thoáng chút yêu kiều, thời của những Chagall, Pissarro, Cezanne, Matisse…Và ngay cả rất xa xưa, Rembrandt.


------------


Không khí phòng triển lãm tràn đầy những tinh hoa, thoát bay và ấm áp.

Khói thuốc Haft & Haft thơm tho, Basto nặng nồng, hay Lucky mờ mịt. Mắt tôi bốc cay với khói mà tưởng như có thêm cả chút nồng nàn, sướt mướt.

Những bức tranh với tên gọi bàng bạc như Thơ.

 Anh Trịnh Cung với “Vương Hương”, “Trăng, Chim, Hoa và Nàng”, của anh Đinh Cường, Nghiêu Đề với “Vùng Thanh Thoát”, và Nguyễn Trung là “Đêm Chân Không”…

Tôi mê những bức tranh cổ điển của anh Đỗ Quang Em. Ánh sáng và bóng tối, lạnh toát hay vắng tanh...Anh đã làm ấm lại trong tranh, chỉ với chút ánh đèn dầu le lói.

Và tranh Cù Nguyễn, đẹp như một thinh lặng, gắn bó cùng nỗi chết, đâu đó tận cuối chân trời...


Sàigon, những ngày xao xác cùng chiến tranh, những lửa đạn kinh hoàng Khe Sanh, Quảng Trị.

Đạn lạc tên bay những nơi xa vời để bảo vệ cho Saigon, một Saigon không tiếng súng.

Và tôi, trốn hết học hành trường lớp. Tôi mê muội theo những hương thơm ngát của sơn dầu, bàng hoàng bên những nét cọ đẹp đẽ. Nét cọ mà khi dào dạt cùng tranh, đã phải sắc sảo hơn những nét bút rời rạc, chữ nghĩa lơ mơ của tôi trong trường thi, lớp học.

Tôi bị cuốn theo những chiều rực rỡ La Pagode, những sáng còn mờ sương khi phòng tranh chưa mở cửa. Nơi đó, có năm bảy chàng họa sĩ ngồi cafe bên góc hè của Continental Hotel, bên cạnh phòng triển lãm. Những giấc mơ cùng với khói thuốc mịt mù bay, huyên thuyên bàn bàn, nói nói về những tác phẩm mới, những dự tính mới.

Và, phố xá. Và Sàigon của những đêm mưa ướt, ánh đèn đường lạnh lẽo cùng với lá rụng, lao xao...


-----


Leonardo Da Vinci dặn rằng, tranh là bài thơ để đọc, và thơ là bức tranh để xem. Tôi luôn lẫn lộn giữa thơ và tranh, tiện thể, tôi còn nhầm luôn Hoạ sĩ với Thi sĩ. 

Nghiêu Đề, chàng hoạ sĩ đa tình. Nói chuyện như thơ đã mời tôi ngồi mẫu, và tôi tình nguyện, tôi hân hoan được làm người: Đứng mãi trong tranh.



                       blank

                                       Tranh Đinh Cường 1978


Trong một buổi họp trà dư tửu hậu của HHST, tôi rủ theo cô bạn.

Trên đường về, cô phàn nàn: “Hội Họa Sĩ Trẻ”, tên nghe hay hay, nhưng sao toàn mấy ông ...già chát?

Tôi phải lan man giải thích. Khi các hoạ sĩ muốn lập hội, đã bị nhiều khó khăn, bị từ chối bởi Bộ Văn Hóa.

Bác Sĩ Nguyễn Tấn Hồng lúc đó là Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên, đề nghị đặt tên lại là: HHST Việt Nam, tên phải nghe như một “đội đá banh” của những bạn trẻ. Như thế, Bộ Thanh Niên mới có thể quyết định cho lập hội, thay vì phải qua sự can thiệp của Bộ Văn Hoá.

Và như tên gọi của một Hội đá banh đó, bỗng có những khuôn mặt không còn trẻ nữa, lại càng không có sức nào để có thể chạy, đuổi theo những trái banh trên sân đá.

...Những “Hoạ sĩ Trẻ, sao đã già, mà...lại còn già chát?”.


Với tôi, Arts sáng như trăng và long lanh không tuổi. Như khi nhìn những công trình sáng tạo của Angelo, Bernini...Cái đẹp qua tượng nude của David, dáng nằm trầm luân của Teresa...Và còn rất nhiều những công trình kiến trúc. 

Arts, đã xóa hết những nếp nhăn của thời gian, và đã làm biến mất khoảng cách của không gian. Để cho dù tới ngàn năm sau, Artists vẫn luôn hiển hiện trước những tác phẩm, những công trình tuyệt vời, muôn đời của họ…

Và những nhân vật trong Hội Họa Sĩ Trẻ, lứa tuổi của 30, 40. Đã sáng chói trong tâm tưởng tôi, cô bé thời đi học. 

Qua những tác phẩm nhiều khai phá, sáng tạo với đầy tài hoa...Họ đã rất trẻ, và họ sẽ còn trẻ mãi. 



blank

               Tranh Hồ Hữu Thủ 1994


Nhưng lần lượt rồi họ sẽ ra đi. 

Nói đùa như anh Mai Chửng và Nguyên Khai dặn dò Nghiêu Đề bên giường bệnh: “Xuống đó nhớ lập lại Hội, xong xuôi rồi thằng nào xuống trước sẽ ghi danh…”


Năm 1974, anh Lê Tài Điển từ Pháp về, ngồi với anh Nghiêu Đề và tôi ở phòng tranh La Dolce Vita, phía sau hotel Continental Palace. Đặc biệt của La Dolce Vita là rất chuyên nghiệp và kỹ lưỡng về ánh sáng cho từng bức tranh.

 Ánh sáng hài hòa đã làm nổi bật, đẹp thêm cho những tác phẩm của Hội Họa Sĩ Trẻ, khiến anh Lê Tài Điển muốn ngồi lại mãi, dù phòng tranh đã tới giờ đóng cửa. Anh dặn dò tôi: “ Cô nhớ nhé, hạnh phúc và may mắn nhất là được ngồi chung quanh những bức tranh, những tác phẩm muôn đời...”.


Tôi Cafe mỗi sáng, rượu đỏ mỗi tối bên những tranh của Đỗ Quang Em, Nguyển Trung, Đinh Cường và Nguyễn Phước...Những xanh mượt mà, những đỏ như mặt trời, trắng xóa như sẽ chẳng còn thấy gì, hay những màu âm u lạnh toát trong tranh Nghiêu Đề...

Bắt chước La Dolce Vita, tôi thắp sáng những ánh đèn, tôi tạo ra một không gian bừng lửa.

Những ánh đèn rực rỡ đôi khi, đã soi xuyên qua những tối tăm, lạnh lẽo, đã như những  hét hò trong đời sống tôi, lặng câm.

Những nhân vật nhiều đêm cũng bước ra từ tranh. Rất điềm đạm ngồi uống với tôi, nhắc lại cùng tôi những điều xa xôi từ trăm năm cũ.


LêChiềuGiang


Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trở lại đề tài Karaoke, “ca ra” thuộc về hát, “ô kê” thuộc về nghe. Có nghĩa, hát và nghe là giao tiếp. Người hát truyền dẫn cảm xúc hay, lôi cuốn, người nghe hưởng ứng nhiệt tình, gây cho người hát gia tăng cảm xúc, thêm hứng khởi, hát tận tình. Trong suốt khoảng thời gian trình bày ca khúc, sự hỗ tương giữa hát và nghe là động cơ làm cho bài trình diễn đó đạt được giá trị cao.
Sài gòn ơi đường phố vắng không người Vào những ngày cơn ác mộng khôn nguôi Tôi muốn nói về một niềm hy vọng Niềm tin yêu và hy vọng đời đời
Nói đến việc tập hát Karaoke, tôi nghĩ, có lẽ không có công việc gì mà một số lớn người Việt có thể tự nguyện tập luyện hăng say như vậy. Thời giờ dùng để tập hát, có lẽ, ngang ngửa với thời giờ xem phim bộ. Say mê. Tưởng tượng. Đi làm về, bật máy lên hát. Ngủ dậy, vừa thay đồ vừa hát lập đi lập lại kẻo quên giai điệu. Tắm hát. Lái xe hát. Vào sở làm, hát lén. Ăn trưa ngồi một mình, hát lẩm bẩm. Tôi có một anh bạn, ngày thường cũng như cuối tuần, ngoài những lúc đi họp hát, lúc nào cũng thấy anh ngồi thẳng thóm nơi ghế sa lông dài, nhìn chăm chăm vào máy truyền hình, miệng hát và tự làm duyên một mình, tay đưa lên diễn tả như đang đứng trên sân khấu. Vợ anh ta than phiền, Ổng không làm gì hết. Tối ngày ngồi một chỗ hát đến nổi lủng luôn ghế da. Năm xưa, vợ chờ chồng đi chinh chiến đến nổi hóa đá. Nay, vợ chờ chồng ca hát, lạnh lẽo gối giường. Khuya khoắt mới chịu vào ngủ. Bạn tôi đến nay đã thành ca sĩ đối với một số thân hữu có giới hạn.
Sài Gòn đại dịch, những con đường vắng ngắt, những con hẻm buồn tênh, những mặt người sầu lo. Quán xá hoang vu, chợ búa im lìm, thành phố phong tỏa rồi. Dòng người nghẹn ngào, lìa xa thành phố, tìm đường về quê, nương náu với người thân, ước mong trở lại khi dịch cúm không còn. Nhưng anh còn em, đôi ta còn nhau, ta yêu Sài Gòn bao mùa mưa nắng, ta thương Sài Gòn năm tháng vẫn hiên ngang. Vững tin quê hương lướt qua cơn đại dịch.
Có một sự kiện rất lý thú là trong Kinh Phật kể chuyện một hôm, lúc Đức Phật còn tại thế, các nhạc thần Càn Thát Bà (Gandharva) đã đến chỗ Đức Phật và tấu nhạc để cúng dường Ngài và Đại Chúng. Nhạc của những nhạc thần này hay và sống động đến độ nhiều vị đệ tử của đức Phật cũng bị lôi cuốn và đứng dậy nhảy múa theo tiếng nhạc dù chỉ là giây lát. Sự việc này cho thấy rằng từ thời Đức Phật vào thế kỷ thứ 6 trước tây lịch âm nhạc đã xuất hiện trong các pháp hội, các sinh hoạt của thất chúng đệ tử Phật.
Hiro đã bị trầm cảm không chỉ vì chứng bệnh của ông, mà cũng vì sự gia tăng bạo động chống lại người Á Châu và sự bất an và nổi dậy liên quan đến bầu cử. Tên cuộc triển lãm của ông hiện nay tại The Box ở Los Angeles là “Armor,” gói gém ước muốn của ông để chống lại sự bất an đó qua tự phản ảnh nghệ thuật.
Anh bạn thi sĩ, Nguyễn Bá Trạc, cho tôi một lời khuyên, khi mới vừa bước chân vào xóm văn chương. Anh nói: -“Ai khen mình, dù không đúng, cũng vui. Nếu khen đúng, lại càng vui hơn. Ai chê mình, dù không đúng, cũng buồn. Nếu chê đúng, lại càng buồn hơn.” Thật là chí lí. Tôi có hàng trăm kinh nghiệm về chuyện này. Trong các loại chê, lời vợ chê là đau đớn nhất, lưu trữ lâu dài nhất, thông thường là đúng nhất. Nếu biết sửa đổi những gì vợ chê, những người đàn ông đó đều trở thành thiên tài. Còn lời vợ khen thì sao? Đề phòng, sắp tốn tiền.
What the Horse Eats, tựa đề tiếng Việt là Trong Bụng Ngựa, là vở opera kể một câu chuyện có thật xảy ra thời Nhật chiếm đóng Việt Nam năm 1945. Ở những làng quê miền Bắc, những cái xác trơ xương nằm vất vưởng ngoài đường. Người ta, cũng là những bộ xương còn sống còn đi được, gom xác chết chất lên xe cun cút đem chôn tập thể. Cả làng tiêu điều như thành phố ma. Hơn hai triệu người Việt Nam đã chết đói. Dân số vào thời đó là 18 triệu. Chiến tranh, nạn đói, chế độ thực dân dồn ép con người ta phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết, giữa danh dự và tình thương cho con. Một anh chăn ngựa lo lắng cho gia đình, đặc biệt là đứa con mới chào đời. Anh phải nhận lời làm không công cho viên Đại Uý Nhật, chăm nom con Ngựa Trắng quý của ông ta, cùng lúc anh mang trong đầu một tính toán táo bạo. Người vợ của anh thì đang vật lộn với trách nhiệm và tình thương của người mẹ, chỉ biết gắng gượng nuốt rễ cây. Hai vợ chồng cố gắng sống mòn trong danh dự. Cuối cùng, cùng đường, họ đành chấp nhận
Trầm Tử Thiêng đã hiến trọn một đời cho âm nhạc, ông được hàng triệu người thương yêu mến mộ. Kho tàng nghệ thuật của ông là 200 ca khúc tình yêu, thân phận, quê hương và chiến chinh. Hành trình sáng tác cũng như tác phẩm của Trầm Tử Thiêng gắn liền với thời cuộc của đất nước và mối tình của chính cuộc đời ông…
Theo ghi chú trong cuộc triển lãm, “‘bản thể khác biệt’ thấu hiểu rằng bản chất nội tại của thực thể không được cấu thành một cách độc lập hay riêng rẽ đối với những thực thể khác... đó là một thuật ngữ có thể đặc biệt tìm thấy trong những tác phẩm của Jacques Derrida, Gilles Deleuze, trong triết học chuyển hoá, hay trong tư tưởng “trống rỗng” và “sự bắt nguồn phụ thuộc” của Phật giáo.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.