phân thân | autotomy

7/17/202511:03:00(View: 585)
Phân Thân _ Đinh Cường
Tranh Đinh Cường

 

Khi lâm nguy, loài sứa biển tự mình chẻ đôi
một nửa phó cho đời nuốt chửng,
nửa còn lại tự tìm lối thoát thân.

xác thịt xé đôi, giữa diệt vong-cứu rỗi
mất gì được gì
giữa những điều đã qua
những gì sắp tới.

rạch vạch nứt giữa thân
mở ra ranh giới hai đầu


bên đây sống, bên kia chết
đằng này hy vọng, đằng kia tuyệt vọng

chiếu từ bàn cân
hai bên nặng nợ như nhau

chết phần phải chết – không thể chết hết
sống phần còn sống – còn phải sinh sôi.

Chúng ta cũng vậy, cũng biết phân thân

giữa xác phàm – bài thơ ta bay lên
thầm thì không ngơi

bên này cuống họng, bên kia nụ cười
bên này tỏa sáng bên kia vụt tắt

một bên lòng tàn lụi, một bên non omnis moriar
chỉ là những thanh âm, nhẹ hẫng hút biến

và vạch nứt – không thể tách ta làm hai
mở ra, nuốt ta vào đó.

Wisława Szymborska  | Nguyên Yên phỏng dịch

 

*non omnis moriartôi sẽ không chết hết
Câu trích từ thơ Horace. “Non omnis moriar” – nghĩa là: “Tôi sẽ không chết hết.” Hay một phần của ta – lời nói, thơ ca, hay ký ức – sẽ sống tiếp sau cái chết của thân xác.

 

autotomy  

When in danger the sea-cucumber divides itself in two: 
one self it surrenders for devouring by the world, 
with the second it makes good its escape. 

It splits violently into perdition and salvation, 
into fine and reward, into what was and what will be. 

In the middle of its body there opens up a chasm
with two shores that are immediately alien. 

On one shore death, on the other life. 
Here despair, there hope. 

If a scale exists, the balance does not tip. 
If there is justice, here it is. 

To die as much as necessary, without going too far. 
To grow back as much as needed, from the remnant that survives. 

We know how to divide ourselves, how true, we too. 
But only into a body and an interrupted whisper. 
Into body and poetry. 

On one side the throat, laughter on the other, 
that's light and quickly dying. 

Here a heavy heart, there non omnis moriar
just three little words like three feathers in ascent. 

The chasm does not cut us in two.  The chasm surrounds us.


wislawa szymbors | English translation by Magnus J. Krynski and Robert A. Maguire

In memoriam Halina Poświatowska

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tương lai ai bắn tôi bằng đại bác /tôi chịu tan xác / không một chút than oán / nhưng bây giờ tôi phải bắn / bắn vào một loại quá khứ bằng tất cả cái gì tôi có /không có súng tôi dùng ngòi bút /vừa ngợi ca một quá khứ vừa đâm một quá khứ / khác tóe máu /dòng máu độc hại lưu cữu ấy / đã phá nát hiện tại di hại tương lai /nhiều năm sau nữa /để họ thấu được quá khứ tồi tệ thế nào
nước mắt nước mũi dàn dụa/ chứng dị ứng trở lại nhiều ngày trong tháng / tôi ngồi nghe thế giới rung lắc / trong tiếng la hét reo hò của lũ lên đồng / hiệu ứng cơn sốt trải rộng / dưới lực của áp đặt ức hiếp đe dọa giẫm đạp / đám đông như đàn thú bị săn đuổi / hoảng loạn / lo sợ / co rút thu mình né tránh / không đời nào không thể nào
Tôi gọi tên Tháng Tư | Tôi gọi tên thành phố | Tôi gọi tên người yêu | Niềm đau và nỗi nhớ
ngóng đợi phiên bản thứ mười hai tháng này | trong thành phố với cuộc sống đa đoan | và phận người gãy vỡ.
Tôi buộc nỗi cô đơn của mình | vào cánh diều | thả bay lên thật cao | nỗi cô đơn của tôi
Sớm đó, cha xé tờ lịch nào biết nghe nó khóc, mất một ngày nhỏ mọn rồi mất luôn những to tát mai sau, để tiếp tục héo đau mất ngủ. Sớm đó, cha xé tờ lịch cũ, xé luôn thịt xương, đứt máu mủ yêu thương, mẹ từ đó ủ rủ, cha từ đó trong tù treo cổ những niềm vui.
Hết chiến tranh | Chúng ta già hơn hòa bình | À. thì diễn biến nào | Cũng tới hồi lạnh tanh
tháng tư nhìn lại nỗi buồn | vô cớ có khi vô tâm | nhớ lại những bỡn cợt của bạn bè | khi gần khi xa