Hôm nay,  

Chông Chênh Phận Người

19/11/202410:55:00(Xem: 2953)
(Thân Gửi Chị Liên)

VE_NOI_GOI_DAU_02_Iris Dinh
Minh họa Đinh Trường Chinh
Hai chị em bạn rủ nhau đi chợ Á Đông. Mùa Thu trời lạnh và mưa nhỏ hạt.

Lái xe từ ngoại ô phía Bắc đi về phía Tây thành phố Seattle, nơi cửa hàng, chợ lớn, chợ nhỏ của người Á Đông tụ họp khoảng 15 dặm (miles) từ nhà của hai người.
 
Dưới phố mùa Thu bây giờ người rơi ngoài đường nhiều hơn lá vàng.

Bây giờ rất khác ngày trước, chợ và các cửa hàng không còn là chỗ chỉ thuần mua bán nữa. Hai bên vỉa hè đi bộ và trước các cửa tiệm bách hóa, quán ăn, sẽ thấy đầy người vô gia cư trước cửa. Như những chiếc lá mùa Thu, rơi xuống đâu cũng được. Họ thản nhiên nằm ngồi, thản nhiên dựng lều, thản nhiên tụ họp. Cảnh sát có đến giải tán thì chỉ khoảng một vài tiếng sau cảnh sát bỏ đi, họ lại trở về chỗ cũ. Họ biết đi đâu bây giờ, có cho họ tụ tập một nơi thì họ cũng sẽ lại bỏ đi. Họ như những chiếc lá thích cuốn theo hướng gió. Mà đã là “lá” thì làm sao cưỡng được gió.
 
Khách bộ hành len lỏi giữa những cái túi ngủ cô đơn, giữa những căn lều cá nhân tạm bợ, giữa mặt đất mùa thu ẩm ướt và lá vàng theo gió Thu từng cơn trút xuống. Đi giữa những cái túi ngủ lem luốc co ro quấn một con người như con sâu nằm trong kén, cái đầu và hai chân thò ra hai phía. Ai già, ai trẻ, ai nam, ai nữ cũng không phân biệt được.

Họ từ đâu đến và họ ở lại, giống như câu nói của Caesar: “Tôi đến, tôi thấy và tôi chiếm đoạt.” Nơi họ chiếm đoạt không phải là một cao ốc hay một biệt thự mà là bên hông một siêu thị hay cạnh bãi rác bỏ trống, có khi ngay trước một cửa hàng (Chủ nhân chưa kịp đuổi)
 
Trước thời kỳ Covid họ còn chịu khó ở nguyên một chỗ hơn, ít lang thang hơn, nhưng sau Covid hình như sự “thiên di” như chim đến mùa phải bay đi, thấy họ ở ngoài đường nhiều hơn. Mùa thu, thỉnh thoảng nghe thấy tiếng xào xạc, nhìn lên bàu trời mây xám, một đàn chim mấy chục con bay sát cánh nhau thành một vòng cung rất đẹp và rất Thu. Những con chim này nó biết chỗ nó rời đi và biết nơi nó sẽ đến. Mùa Thu, Đông chúng thiên di và khi Xuân ấm áp chúng lại rủ nhau từng đàn kéo về chốn cũ.
 
Những người vô gia cư này, họ có thể là người địa phương, có thể từ Tiểu Bang khác tới. Họ là những người có vấn đề “tâm thần”. Họ ở Mỹ lâu rồi, và quen với đời sống “du mục” này rồi. Đi đâu cũng là nhà, đi đâu cũng có chỗ cho một cái túi ngủ. Bên hông hay cửa sau của siêu thị, nơi khuất lấp nào đó hay có khi nằm ngay một cái túi ngủ như con sâu trong kén sát một mảnh tường khuất gió, cạnh một bãi xe hay mảnh đất toàn đồ phế thải. Chỗ nào cũng được, miễn là không bị đuổi, có thể họ nghĩ: “Mình cũng đâu có khác gì đồ phế thải, hay:Ta cứ nằm đây, Ta đâu có phải đồ phế thải!”
 
Những người “Vô Gia Cư” này phần đông là những người “tâm thần” hay những người bình thường vướng vào nghiện hút đi tới chỗ mất ý thức và mất khả năng suy nghĩ đúng sai.Họ không còn khả năng làm việc được nữa vì ảnh hưởng của những cơn nghiền đến bất cứ lúc nào làm họ mất suy nghĩ và mất cả sức lực.
 
Thành phố Seattle và Bellevue của tiểu bang Washington có rất nhiều nơi cư trú cho người Homeless, nơi được những người tỉnh táo có tiền có lòng với sự hộ trợ của thành phố, họ thành lập những trung tâm cho Homeless, cung cấp thực phẩm, thuốc men và tài trợ cho những người muốn cai nghiện hút, muốn học nghề để trở lại đời sống bình thường. Nhưng quả thật là rất khó!
 
Họ đã quen với lối sống “du mục” này rồi.
 
Tôi ở đâu mà tôi đến đây
Ngày xưa ai đứng ở chỗ này
Hạt sương Trời khóc ngàn năm trước
Sao còn ướt trên lưng bàn tay (tmt)
 
Họ luôn luôn không ý thức được thân phận và hoàn cảnh của mình. Họ bằng lòng với những gì họ đang có.Họ đi riêng lẻ, hay tụ nhập nhau thành nhóm ba, năm người. Họ hòa đồng hay họ là một thế giới đơn lẻ, riêng tư.

Họ là gánh nặng cho thành phố và cho chính họ. Có người có gia đình nhưng họ không muốn sống với gia đình, họ có thế giới riêng của họ.
 
Nước Mỹ đang xôn xao về những người tỵ nạn chiến tranh trên thế giới muốn tràn vào nước Mỹ (như họ cũng đang tràn vào Anh, Pháp, Đức…) Những người tị nạn từ Africa, South America, Mexico, Middle East và ngay cả từ China… Họ bỏ nước ra đi vì đói kém, vì chiến tranh, vì chính trị… Khi ra đi thì sự sống chết đã được lựa chọn. May thì sống, không may thì chết. Nếu ở lại chiến tranh và đói sẽ chắc chắn là chết. Đi còn hy vọng ở may rủi. Họ đáng thương như tất cả những người tị nạn vì chiến tranh vì kinh tế trên thế giới giống như những người Việt phải đào thoát vì sự xâm lược của Cộng Sản năm 1975. Họ đáng thương hơn nữa vì nước Mỹ hiện tại không muốn cưu mang họ, vì con số nhập cư quá lớn này, một gánh nặng cho nước Mỹ.
 
Người Mỹ sợ mất việc, hao hụt ngân quỹ, hao hụt thực phẩm về những con người đáng thương này… Ai mà không sợ cái túi của mình vơi đi vì phải phân phát cho người khác.
 
Nhưng có phải, những người vô gia cư vì tâm thần, những người vô gia cư vì chiến tranh, đều đáng thương và cần được giúp đỡ, yêu thương!
Có ai đó đã ngửa mặt lên Trời, tìm Thượng Đế, hỏi Ngài:
 
Tôi ra đời đã được bao lâu
Sao Trái tim tôi nếp gấp nhàu
Mặt đất tôi đi bao ngàn dặm
Sao vẫn chông chênh những bước đầu. (tmt)
 
Nếu chính bạn là người tỵ nạn chiến tranh là người vô gia cư, bạn đang bước những bước rất chông chênh, bạn có muốn tìm một nơi để vào trú ngụ không? Bạn có cần một bàn tay đưa ra cho bạn nắm không?
 
Trần Mộng Tú - ngày 17-11-2024
 
Note: Caesar: I came, I saw, I conquered.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.
Anh cho xe dừng lại nơi góc đường rồi đi bộ về phía căn nhà. Tuyết đang rơi dầy đặc trắng xóa cả bầu trời, đúng là một White Christmas như nhiều người mong muốn. Những ánh đèn màu trang hoàng trước sân các nhà nhấp nháy vui tươi như đang mừng đón Chúa Hài Đồng giáng trần. Anh bước lên bậc thềm gỗ, bước rón rén đến cửa sổ nhìn qua tấm rèm mỏng, hơi giật mình sựng lại khi thấy ba mẹ con cô ấy đang dọn bữa ăn đêm Noel. Hẳn là họ vừa đi lễ về, anh thầm nghĩ. Nhìn đứa con trai mười ba tuổi và đứa con gái mười một tuổi giúp mẹ sắp xếp bày biện thức ăn trên bàn, anh thoáng chút xúc động và an tâm vì các con đã lớn, có thể đỡ đần mẹ trong nhiều việc nhà, anh cũng thấy bớt đi mặc cảm tội lỗi của mình.
Chuyện xảy ra trên một chuyến xe Greyhound. Xe đò Greyhound có vẽ con chó sói xoải cẳng phi nước đại bên hông là thứ nối liền các thành phố bên Mỹ và Canada. Nhiều người trong chúng ta chắc đã từng ngự trên những chuyến xe xuyên liên bang này. Tôi cũng đã từng xuôi ngược với Greyhound. Từ Montreal qua Washington D.C. thăm bạn bè dân thủ đô nước Mỹ như các ông Dzương Ngọc Hoán, Nguyễn Tường Đằng. Từ Vancouver qua Portland thăm ông Từ Công Phụng. Từ Seattle về Vancouver sau khi cưỡi du thuyền đi Alaska thăm mấy chú gấu tuyết. Nói như vậy để thấy tôi cũng có chút kinh nghiệm khi chen vai thích cánh cùng những người không có hoặc ngại lái xế riêng.
Hai chữ giang hồ không mấy xa lạ trong đời sống của mỗi người đều thường đề cập trong thơ, văn, điện ảnh… và cũng là câu nói thường tình với cá nhân, nhóm người trong xã hội. Tác phẩm Thủy Hử ban đầu là Giang Hồ Khách Truyện, sau lấy tên là Thủy Hử vì “căn cứ địa” Lương Sơn là vùng đầm, hồ nên Thủy Hử (bến nước). Truyện nầy qua bản dịch của La Thần và Á Nam Trần Tuấn Khải, gồm 3 cuốn, năm 1973, sau đó với Tử Vi Lang nên rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Trong truyện Thủy Hử của của nhà văn Thi Nại Am (1296-1372) ở Trung Hoa vào triều Nguyên-Mông (1295-1368), kể về câu chuyện của Tống Giang triều nhà Tống, nổi dậy kéo theo “giang hồ hảo hán” gồm 108 người đến núi Lương Sơn. Gọi là anh hùng Lương Sơn Bạc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.