Hôm nay,  

Anh Em

21/12/202314:29:00(Xem: 1138)
Truyện

Nam Bộ

Ông Tư và ông Năm có một những ngày tuổi thơ rất xanh màu da trời và rất hồng màu ráng chiều, nghĩa là ở một vùng quê có dòng suối Sầu Đâu và dòng sông Tam Mỹ. Dòng suối chảy vòng vòng qua những làng trên xóm dưới. Dòng suối cạn nên hai đứa bé cởi bò, bơi qua suối trong những ngày mùa gặt, cả khu Đồng Đất ồn ào rộn rịp, ca bài ca gánh gánh gánh gánh thóc về.
    Những ngày tuổi thơ vắt ngang lưng những sợi tơ vàng, khu Đồng Đất, xóm Gò, suối Sầu... Người mẹ tất tả sáng sớm thức dậy nấu cơm, nấu đồ ăn, cùng người cha ngồi trong căn nhà bếp. Hai ngưới nói chuyện râm rang, chuyện trời mưa trời nắng. Con Mơ con nhà bà Đương lấy chồng về xóm Đồng Rạ, sống không được thế nào ấy, mà bỏ về nhà khóc bù lu bà la. Thằng Quê bỏ quê mà đi vào Sái Gòn lập nghiệp rồi, nó than, quê hương chó ỉa. Thằng ba Đạt vào biệt kích đánh trận đâu trên Kỳ Sơn chết đem xác chở về chôn ở xóm Gò. Con tám Hường con ông Thông cũng bỏ chồng về sống với bà An, làm cái chòi ở xóm ông Đốc. Những chuyện trời mưa trời nắng đó, đã đưa cha mẹ trở về tháng ngày tuổi thơ đầy trăng sao hoa mộng của những mùa trăng thơ ấu cũ.
    Rồi những ngày ông Tư đi lính đóng tuốt xa đâu ở vùng hai chiến thuật, còn ông Năm cày lội lên thác xuống ghềnh ở vùng một, đầy bom mìn, lựu đạn, AK.
    Cũng may, hai ông đã thoát qua khỏi cơn chiến tranh đau đớn, xao xác đó.
    Ông Tư đi tập trung ở Trảng Lớn. Rồi đi qua khắp cả những trại tập trung hung hản nhất, thì ông Năm cũng vào lò cải tạo...Suốt trong gần mấy năm xa cách, hai anh em không gặp nhau. Những đêm thâu trằn trọc không ngủ được ở Trảng Lớn, ở Thành Ông Năm, ở Suối Máu, ở Long Giao, ở Long Khánh, hai ông chỉ mong ra hiện trường sản xuất để thấy nhau, ngó nhau chút thôi cũng được, nhưng vẫn không thấy, vì ở hiện trường lao động sản xuất, số tù đông như kiến. Chỉ biết nhau do người nhà thăm nuôi kể lại, thằng G đang cũng ở khu này, mi có gặp không? Đâu có gặp, trong hàng rào kẻm gai mà làm sao gặp được. Chị Ba nói như hai người đang sống ở ngoài đời vậy.
    Ông Tư về trước ông Năm mấy năm, ông lại từ miền nam về trung, xuôi theo chuyến tàu chợ, chở đầy súc vật, mắm, muối, gạo, rượu, của đám người đi buôn hàng chuyến. Ông phải đi bộ thêm hai mươi cây số nữa mới tới chỗ ông Năm. Nhìn dáng thằng em gầy trơ xương ông thương quá là thương, nhưng rồi ông nhìn lại mình, cũng vậy chứ có khác chi mô, cũng trơ xương như người trong nạn đói năm Ất dậu.
    Hai anh em nghẹn ngào không nói được câu nào ra hồn, ông Tư, ừ thì ngoài mình cũng bình an, nhờ ơn cách mạng anh có công ăn việc làm, ở kinh tế mới anh vào rẫy cày sâu cuốc bẫm cũng đủ ăn...ông Năm, cảm ơn cách mạng, em an tâm học tập tốt lao động tốt, mong sớm về với gia đình.
    Thời gian trôi qua, đến sáu năm, ông Năm trở về. Ông đã lên cùng ông Tư cũng chun vào rẫy bái ở khu kình tế mới...cũng cày sâu cuốc bẩm mà kiếm không ra đủ hột gạo để nuôi thân...
Rồi hai ông cũng lê thê lếch thếch kéo nhau về Sài Gòn, ông Năm chạy xích lô, ông Tư đi bỏ hàng lặc vặt kiếm ăn qua ngày. Buổi chiều khi mọi chuyện đã xong thì hai ông hẹn nhau xuống quán cơm bà cả đọi. Như vậy cũng suốt bốn, năm năm...
 
*
 
Rồi cũng hai mươi năm sau, gió hải ngoại rít lên qua những tầng mây xám.  
    Ông Tư về vùng đất lạnh bên trời tây bắc. Ông Năm về vùng nắng ấm. Những hai mươi năm sau hai ông mới gặp lại (dù hằng năm ông Tư cũng về thăm thằng năm mấy lần).
    Tương phùng. Đúng là tương phùng.
    Tóc hai ông già đều bạc. Nhưng xí xọn chút cho coi được, cho như còn thời trai trẻ, cố lấy lại tuổi thanh xuân. Tóc hai người đều nhuộm. Trông  trẻ hơn, nhưng sức nặng của thời gian đã đè xuống, khiến hai ông nhin đời bằng con mắt ngơ ngơ. Tóc ông Năm nhuộm đen tuyền còn ông Tư màu nâu sẩm. Họ cố kiếm nhà ở gần nhau. Hai ông lại vẫn sáng, trưa, chiều, tối, bên chung trà, bên chén rượu.
    Một buổi sáng bà Tư gọi ông Tư, ông ơi, ông ơi. Tai ông Tư bây giờ điếc đặc. Cái điếc của ông cũng mấy năm rồi, nhưng nó từ từ đến. Đến bây giờ ai nói, phải kê sát miệng vào tai ông nói lớn. Người ngoài nghe tưởng là có chuyện gì họ cự nự nhau.
    Bà Tư nói với ông Năm, ổng điếc lắm, tui cũng mệt cho ổng. Nói chuyện với ổng phải múa chân múa tay. Nói vậy nhưng bà thương ông, thường pha cho ông bình trà ngon, nấu cho ông tô ốc miu loãng để ông ăn sáng. Ông thích nhâm nhi ốc miu bên li trà và ngồi lướt net.
Ông Năm là người sa đà những chuyện vớ vẩn trên đường tình. Qua bà thứ nhất vì tù tội, nên ông trở về mỗi người mỗi ngã. Ông kết bà hai, cũng gãy đổ. Rồi đến bà ba. Cũng bỏ đi, ông nghĩ đàn bà sao dữ như con chằn lửa. Bà ba lại bỏ đi, săm soi đời ông từ ngày ông còn cởi trường, leo lên lưng bò tắm suối.
    Ông lại trở về nỗi cô đơn thui thủi một mình.
    Ông Tư thấy đứa em lận đận như vậy quá thương. Dù biết rằng mỗi người có một số trời định, nhưng thằng em của ông là một đời nghiệt ngã. Biết ông Năm có số đào hoa, nhưng thật ra, ông không lang bang, bạ ai yêu đó. Ông yêu ai, lấy ai, là yêu chết bỏ và trung thành chết bỏ. Ông không có cuộc ngoại tình nào.
    Nhưng dù có trung thành bao nhiêu đi nữa, thì (các) bà Năm cũng ghen nhau. Bà Năm ba tìm đâu một tấm hình cũ của bà Năm hai chụp với người chị, một thời xa lắc, liền tru tréo lên những lời phỉ báng độc địa rồi khăn gói bỏ đi. Ông Năm có giải thích thế nào thì cũng là những lời vô vọng. Ông đành im lặng nhìn trời hiu quạnh.
    Đàn bà là con ma. Ông Năm thường tự nhủ mình vậy, nhưng thiếu vắng con ma lòng ông tự dưng ông thấy nhớ. Trở về mái nhà xưa với các bà Năm: một, hai, ba, không được, ông phải đi tìm một người khác thế thân.
    Đó là cái số, ông Tư thương thằng em lao đao vì chuyện đàn bà. Nhưng biết làm sao? Thôi thì nó đi đâu cố đi theo nó.
    Ông già bảy bảy đi theo lẽo đẽo bên ông già bảy ba. Cà phê ngồi quán ông bảy ba phải nói thật to lên, chứ không thì ông bảy bảy cứ ngửa cổ lên ngóng. Cái gì, mi nói gì tau không nghe rõ. Điếc mà, mi không biết sao?
    Cuộc nói chuyện có lúc sôi nổi như cải cọ chuyện gì.
    Ông Năm nói nhỏ vào tai ông Tư. Tui phải kiếm một bà nữa anh Tư ơi. Một mình vò vỏ quá.
Ông Tư gục gặc cái đầu.
    Ừm. ườm.
    Ông Tư im lặng, ông muốn nói một điều gì đó cho ông Năm biết theo sách giáo khoa thư, như nhân nghĩa lễ trí tín, hay với người đàn bà phải tam tòng tứ đức, công dung ngôn hạnh... Ông gục gặc cái đầu chưa kịp nói ra thì ông Năm nói trước:
    Thôi, nghĩ cũng mệt quá anh Tư à, em đã từng tuổi này mà phải bắt đầu từ con số không thì mệt quá. Em xin nghỉ xả hơi cho khỏe. Mình một mình ngủ nghỉ ung dung, không có ai quấy rầy thì tốt nhất. Thỉnh thoảng xuống thăm con, bồng cháu, giỡn hớt với tụi nó cũng vui. Rồi chiều chiều qua anh cùng anh chè chén...lai rai ba sợi, cũng đủ lãng quên đời, thế là vui rồi, phải không anh Tư.

    Ông Tư e hèm.

    Ườm, ườm...

 

– Trần Yên Hòa

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trước đây, trong một bài viết, tôi có nói về mùa đông Canada nói chung và tại thành phố Edmonton của tôi nói riêng, bắt đầu từ tháng mười một cho đến tháng hai năm sau. Nhưng tháng mười một chỉ là cái lạnh đầu đông nên không thấm thía gì với dân Cà Na Điên, tháng mười hai cuối năm bận rộn cho những ngày lễ nên cũng chóng qua, tháng hai thì chỉ có …28 ngày ngắn ngủi, lại vào dịp Tết âm lịch và Valentine ấm áp trái tim, thành ra đối với tôi, mùa đông thực sự chỉ có …tháng một mà thôi...
Qua Thiền tông, chúng ta có một số chuyện thiền được lưu truyền để nhằm mục đích diễn giải triết lý thâm sâu của đạo Phật dưới hình thức chuyện thiền hay giai thoại về các bậc thiền sư...
Tôi là con nhỏ Bắc di cư, nên hết Hè năm 75 tôi học xong đại học, chuẩn bị đi dạy. Ai dè ngày 30/4 ập đến, tất cả sinh viên miền Nam tạm ngưng việc học, để đi làm lao động công ích, dọn dẹp đường phố, phụ việc đổi tiền, đào kênh…
Có một lần, tôi gặp bài của một tác giả viết về nước Mỹ, rất hay rất cảm động, bà ấy nói về chồng bà và gọi ông là « y của tôi », cái cụm từ thật thân mật, y của tôi, nghe hợp thời hơn chồng tôi, anh tôi, nhà tôi… nhứt là trong trường hợp mà tôi đang muốn nói về chồng của bạn mình, thì còn tiện và hay hơn nữa. Thí dụ: Chồng của bạn Liên, tôi gọi là y Liên, chồng của bạn Dung, thì tôi gọi là y Dung, chồng của bạn Thu, thì tôi gọi là y Thu…
Thế là thiên hạ thoát khỏi cơn đại dịch, tuy nhiên nhiều người vẫn còn sệt, một số giới chức và bọn truyền thông quen lối bé xé ra to và hù dọa cứ tung tin linh tinh. Tất nhiên cũng có những trường hợp tái nhiễm virut nhưng không có gì nghiêm trọng. Dịch đã trở thành bình thường như những loại cúm theo mùa...
Chị Bông vào diễn đàn Cô Gái Việt đọc bài thơ của chị Hoài Mộng mà ngậm ngùi với những lời thơ thương nhớ người chồng đã khuất mấy năm nay, không có anh cùng uống trà mỗi buổi sớm mai, không có anh cùng đi chùa những ngày rằm ngày lễ lớn, v.v. Trong diễn đàn còn có chị Hiền Thảo vừa mới mất chồng chưa tròn năm...
Mùa này trời tối nhanh, Tết sắp đến, trên con đường làng vắng vẻ, hai bên là những mái tranh nghèo xơ xác, thấp thoáng vài ngọn đèn dầu tù mù, nhìn xa như những đốm ma trơi thoắt ẩn hiện sau những hàng rào tre, càng làm tăng cái vẻ đìu hiu, quạnh quẽ. Ở đây, người dân lo ăn cơm cho nhanh trước khi mặt trời đi ngủ để còn thấy đường dọn dẹp và rửa chén; hơn nữa là để tiết kiệm nhiên liệu vì tiêu chuẩn mỗi gia đình một tháng, chỉ mua được 1 lít dầu hôi thắp đèn...
Điều đáng nể phục và cũng đáng yêu quý là, sau trận cháy rừng năm 2019/2020, vùng thác Fitzroy tiêu điều tàn tạ – nhưng chỉ trong vòng 1 tuần sau đám cháy, trên cây khuynh diệp cổ thụ này đã có những chồi lá thật tươi non, đầy sức sống lại ngông nghênh nhô ra từ lớp vỏ cây xù xì đã cháy xém…
Hầu như người Việt nào cũng biết câu, “nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Tuổi thọ ngày xưa thật đúng là khó có người sống qua bảy mươi tuổi vì điều kiện sống, chế độ dinh dưỡng, chăm sóc y tế còn hạn chế, là chưa nói tới tâm lý người lớn tuổi được sống vui với con cháu, xóm làng, hay tuổi già neo đơn vì hoàn cảnh cũng tác động nhiều đến tuổi thọ. Ngày xưa, người sáu mươi tuổi đã được con cháu mừng thọ dịp sinh nhật thứ sáu mươi. Ai tới bảy mươi là con cháu mừng ông (bà) đại thọ. Hiếm hoi có người sống tới tám mươi thì con cháu mừng thượng thọ. Qua tám mươi cũng có nhưng rất hiếm vì bảy mươi đã được coi là hiếm hoi - cổ lai hy. Nhưng nay đời sống sung túc hơn, hiện đại hơn, và y học tiến bộ hơn nên những lão ông, lão bà bảy mươi bây giờ còn khoẻ re vì họ còn có thể vui chơi, du lịch, tham gia sinh hoạt xã hội, cộng đồng… bệnh tật của họ có bác sĩ chăm sóc với y khoa hiện đại. Đời sống tinh thần vui hay không cũng tùy người, tùy suy nghĩ cá nhân vì người thấy nhà vắng con cháu thì buồn, tr
Hè năm ấy tôi dấn thân vào một việc mà kể từ nhỏ tới lớn tôi chưa từng làm. Dĩ nhiên là không có tý kinh nghiệm nào và vô cùng mạo hiểm. Nhưng người xưa có câu “đói thì đầu gối cũng phải bò”. Thôi kệ phải liều, biết đâu “không thành công, cũng thành nhân”. Sống là trải nghiệm mà...
Mỗi lần đi mua quà cho ai đó, kể cả quà Giáng Sinh, tôi thường bị tẩu hoả nhập ma, có khi đi cả buổi chẳng mua được gì. Chọn quà tân gia càng khó hơn, tôi đi hết tiệm này qua tiệm khác, suy nghĩ về “gia chủ” để đoán xem họ thích quà loại nào, cuối cùng tôi cũng phải chọn một món khi trời đã quá trưa...
Có nhiều lý do để tôi không thích và thường tránh né khi phải lái xe vào khu trung tâm thành phố. Một trong lý do chính là hầu hết các con đường trong trung tâm thành phố trên toàn nước Mỹ đều là đường một chiều...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.