Hôm nay,  

Tôi có tội không?

16/03/202318:18:00(Xem: 2171)

Truyện dịch

Wind


Luật sư biện hộ cho đây là do bệnh tâm thần gây nên. Có cách nào khác để giải thích cuộc mưu sát kỳ lạ này không?

 

Một buổi sáng, gần Chatou, người ta tìm thấy hai cái xác đang ôm nhau, trong đám lau sậy, một nam và một nữ, hai người có tiếng trong xã hội, giàu có, họ cũng khá lớn tuổi, mới cưới nhau năm ngoái, người đàn bà vừa góa bụa ba năm nay. Họ sống bình thường, không có người nào thù ghét họ, và họ đã không bị cướp. Có vẻ như thủ phạm đã ném họ từ bờ xuống dòng sông, sau khi đã đánh đập họ bằng một cây sắt dài.

Cuộc điều tra không khám phá được điều gì. Khi thẩm vấn những người đánh cá ở nhánh sông, họ đều trả lời là không biết gì; các cảnh sát viên đang tính ngưng cuộc điều tra thì một người thợ mộc trẻ ở làng bên cạnh, tên là Georges Louis, thường được gọi là "Trưởng Giả", tự động đến đầu thú.

 

Khi được hỏi nhiều câu, và nhiều lần, anh ấy chỉ trả lời:

 

– Tôi quen người đàn ông này được hai năm, người phụ nữ được sáu tháng. Họ thường đến nhờ tôi sửa bàn ghế cũ hư vì tôi rất khéo tay trong nghề này.

 

Và khi được hỏi: 

 

– Tại sao anh lại giết họ?

 

Anh trả lời một cách ngoan cố:

 

– Tôi giết họ vì tôi muốn giết họ.

 

Cảnh sát không thể biết thêm được bất cứ điều gì khác. Người này khi còn bé có lẽ là một đứa trẻ ngoài giá thú, trước đây được gởi cho vú nuôi ở nông thôn, rồi sau đó bị bỏ rơi. Anh ta chỉ có một tên là Georges Louis, nhưng khi lớn lên, anh ta trở nên thông minh khác thường, với phong cách và sự tinh tế bẩm sinh không tìm thấy ở các bạn bè cùng trang lứa trong làng, nên họ đặt biệt danh cho anh là: “Trưởng Giả", và mọi người chỉ gọi anh ta bằng tên ấy thôi. Anh ta được xem là rất khéo léo trong nghề thợ mộc mà anh đã theo học.

 

Thậm chí anh đã làm một số tượng điêu khắc. Anh cũng được cho là rất nhiệt tình, là người ủng hộ các học thuyết cộng sản và cả chủ nghĩa hư vô, một độc giả đam mê tiểu thuyết phiêu lưu, và tiểu thuyết có tình tiết đẫm máu, một cử tri có uy thế và diễn giả tài ba trong các cuộc họp của thợ thuyền hoặc nông dân.

 

Luật sư cho rằng việc đó xuất phát từ bệnh tâm thần của anh.

Thật vậy, làm sao có thể chấp nhận rằng người thợ này đã giết những khách hàng vào bậc nhất của mình, những người giàu có và hào phóng (anh ta thừa nhận điều đó), họ đã trả những ba ngàn đồng trong hai năm qua (sổ sách của anh đã chứng minh điều ấy).

 

Chỉ có một lời giải thích duy nhất: trong một lúc anh không tự chủ được mình, và định kiến của kẻ không thuộc vào đẳng cấp nào của xã hội, muốn trả thù hai người tư sản của tất cả bọn tư sản; và viên luật sư khéo léo ám chỉ đến cái biệt hiệu “Trưởng Giả” mà người trong làng đặt cho kẻ bị bỏ rơi này; ông ấy can thiệp:

 

– Thật là một điều trớ trêu, và lại thêm một động lực cho cậu bé bất hạnh không cha cũng không mẹ kia! Anh là một đảng viên Cộng hòa, đảng mà đơn giản đốt nhà là một nguyên tắc và giết người là một phương tiện.

 

Những luận thuyết đau buồn ấy giờ đây đã được đón nhận trong những buổi hội họp, đã khiến cho người bạn đây mất phương hướng. Anh ta đã nghe những phụ nữ, vâng chính những phụ nữ muốn đòi nợ máu nào là ông Gambetta này, ông Grevy nọ; đầu óc bệnh hoạn của anh đã chao đảo; anh chỉ muốn đòi nợ máu của giới trưởng giả!

 

Kẻ bị buộc tội không phải là anh ta, thưa quý tòa, mà chính là Cộng đồng!

 

Dưới cử tọa râm ran tiếng tán thành lập luận của luật sư. Có vẻ như ông ta đã thắng kiện.

 

Công tố viên không có phản ứng gì.

 

Quan toà liền đặt câu hỏi thường tình:

 

–  Bị cáo, anh có thêm gì để bào chữa không?

 

Anh ta người nhỏ thó, tóc vàng ươm, đôi mắt trong xám, ánh mắt nghiêm nghị. Vừa nghe thấy anh cất tiếng nói là những ý nghĩ không tốt về anh tan biến mất. Giọng anh to và chững chạc, dùng lời lẽ có vẻ hoa mỹ nhưng rất rõ ràng đến cuối căn phòng rộng lớn người ta cũng có thể nghe được:

 

– Thưa quan toà, tôi không muốn vào nhà thương điên, tôi muốn bị treo cổ hơn, nên tôi sẽ khai tất cả sự thật. Tôi đã giết người đàn ông và người phụ nữ ấy bởi vì họ là cha mẹ của tôi.

Bây giờ, xin hãy nghe và phán xét tôi. Một người đàn bà sinh ra một bé trai và gởi nó đi một nơi xa giao cho vú nuôi. Bà ấy có biết rằng người a tòng với bà đã đem sinh vật nhỏ bé vô tội kia đi đâu, sống một cuộc sống đốn mạt như thế nào, lý do là sự nhơ nhuốc của một đứa con không hợp lệ, và còn tệ hơn thế nữa: nó gần kề với cái chết, bởi vì nó đã bị bỏ rơi, người vú nuôi không còn nhận được phụ cấp, để cho nó chết mòn, đói khát, không ai chăm sóc? Người phụ nữ nuôi tôi thật sự là một người tốt, thật sự tốt, cao cả, có đức tính phụ nữ, có tình mẫu tử hơn người đã sinh ra tôi, người mẹ của tôi. Bà ấy đã nuôi nấng tôi; bà ấy đã sai khi làm bổn phận của bà. Có lẽ tốt hơn là nên để cho những kẻ khốn cùng như tôi tiêu tùng, bị ném đến những ngôi làng ở ngoài thành, y như người ta vứt rác ra ngoài bìa rừng.

 

Tôi lớn lên với cảm giác mơ hồ là tôi mang một nỗi nhục nào đó. Một hôm các bạn gọi tôi là “con hoang”. Chúng không hiểu từ đó có nghĩa gì, một đứa nào đã nghe ba mẹ nó nói; tôi cũng không hiểu rõ, nhưng tôi cảm nhận được.

 

Tôi có thể nói cho quý vị biết tôi là một trong những học trò thông minh nhất trong làng. Thưa quan tòa, tôi có thể là một người lương thiện, một con người cao thượng, nếu như cha mẹ tôi không phạm trọng tội là bỏ tôi. Trọng tội ấy, chính họ đã phạm với tôi; tôi là nạn nhân, họ là thủ phạm. Tôi không được bảo vệ, còn họ thì không có được sự tha thứ.

 

Đáng lý ra họ phải thương yêu tôi: đằng này họ đã ruồng bỏ tôi. Tôi có được cuộc sống là nhờ họ, nhưng cuộc sống có phải là món quà không? Đối với tôi, dù sao đi nữa, cuộc sống chỉ là tai họa. Sau khi bị họ bỏ rơi một cách nhục nhã, điều mà tôi chỉ có thể đáp lại là trả thù… Và với tôi, họ đã thực hiện hành động vô nhân đạo nhất, kinh khủng nhất, bỉ ổi nhất đối với một sinh vật.

 

Tôi đã bị cướp, bị lừa dối, bị đọa đày, bị xúc phạm, bị sỉ nhục, hơn tất cả những người mà quý vị có thể du di tha thứ được.

Tôi đã trả thù, tôi đã giết. Đó là quyền hợp lý của tôi. Tôi đã lấy đi cuộc sống hạnh phúc của họ để bù lại cuộc sống khủng khiếp mà họ đã buộc tôi phải sống.

 

Quý vị cho tôi là phạm tội giết cha mẹ ư! Họ có phải là cha mẹ tôi không, hay tôi chỉ là một gánh nặng ghê tởm, một nỗi kinh hoàng, một vết nhơ nhớp; sự ra đời của tôi là một tai họa, và cuộc sống của tôi là một mối đe dọa cho họ? Họ chỉ biết lòng ích kỷ; họ đã có một đứa con không mong đợi. Họ vứt bỏ đứa trẻ. Bây giờ đến lượt tôi cũng làm như vậy đối với họ.

Quý vị biết không, ngay cả thời gian gần đây tôi cũng có cảm tình với họ. Cách đây hai năm, người đàn ông ấy, lần đầu tiên cha tôi đến nơi tôi làm việc. Tôi không nghi ngờ điều gì, ông đặt làm hai cái tủ. Sau đó tôi biết được qua cha xứ rằng ông ấy đã lần mò tìm ra tin tức của tôi. Rồi ông ấy trở lại vài lần, và trả tiền rất khá cho tôi, có khi nói chuyện này nọ, và tôi thấy mình có cảm tình với ông. Rồi sau đó ông đem vợ của ông đến, bà mẹ của tôi. Khi bà mới bước vào cửa, bà ấy run rẩy dữ dội làm tôi tưởng bà ấy lên cơn bịnh thần kinh. Rồi bà ngồi, và uống nước, và trả lời không đầu đuôi mỗi khi ông ấy hỏi điều gì. Khi họ ra về, tôi nghĩ bà ấy có vẻ lẩn thẩn rồi.

 

Sau đó họ trở lại vài lần.Tôi cũng không đoán biết điều gì; nhưng bỗng một hôm bà ấy hỏi về cuộc sống của tôi, về tuổi thơ, về cha mẹ của tôi. Tôi trả lời: “Thưa bà, cha mẹ tôi là những kẻ khốn nạn đã bỏ rơi tôi!” Vừa nghe như thế, bà ấy ngã ra bất tỉnh. Tôi liền biết ngay đây là mẹ của mình, nhưng bề ngoài tôi không lộ vẻ gì khác thường. Tôi muốn bà ấy sẽ trở lại.

 

Về phần tôi, tôi đi hỏi thăm đây đó và biết rằng họ mới cưới nhau vào tháng bảy vừa rồi, bà ấy mới trở nên góa bụa từ ba năm nay. Người làng bàn tán rằng hai người này đã đi với nhau từ lúc người chồng trước của bà còn sống, nhưng không ai có bằng chứng. Chính tôi là bằng chứng, một bằng chứng mà lúc đầu người ta giấu nhẹm đi, rồi sau đó hy vọng sẽ tiêu huỷ.

 

Tôi đợi chờ. 

 

Một buổi tối, bà ấy đến, và cha tôi cũng đi cùng. Hôm ấy bà có vẻ xúc động hơn thường ngày, tôi không hiểu tại sao. Lúc ra về, bà nói: “Ta muốn cho chú mày sống tốt, vì chú mày có vẻ lương thiện và siêng năng; một ngày nào đó chú em sẽ cưới vợ, và ta sẽ giúp chú em tìm một cô gái thích hợp với chú, một lần ta đã bị ép gả cho một người mà ta không thích, và ta đã biết thế nào là đau khổ. Bây giờ ta giàu có, và không có con. Ta tặng chú món tiền để làm vốn”. Bà đưa cho tôi một bì thư lớn có niêm phong. Tôi nhìn bà chằm chằm và hỏi: “Bà là mẹ tôi phải không?” Bà bước lùi ra xa và lấy tay che mặt để khỏi nhìn thấy tôi. Còn ông ấy, người cha của tôi, vịn đỡ bà và la lên: “Mày điên rồi à!” Tôi trả lời: “Tôi không hề điên chút nào, thưa ông. Tôi biết rõ ông bà chính là cha mẹ của tôi. Không dễ lừa tôi đâu. Hãy thú thật điều đó, và tôi sẽ giữ bí mật, tôi không làm gì ông bà đâu; tôi vẫn là một người thợ mộc như hiện nay, sẽ không có gì thay đổi”.

 

Ông ấy thụt lùi phía cửa, vẫn ôm bà vợ đang khóc. Tôi liền chạy đến khóa trái cửa lại, cất chìa vào túi quần, và nói tiếp:  “Hãy nhìn bà ta đi và tiếp tục chối rằng bà không phải là mẹ của tôi”. Ông ấy liền nổi giận, mặt mày xanh lét, kinh hoàng vì nghĩ rằng việc im lặng từ xưa nay bây giờ có thể bùng phát tai tiếng, và trong một thoáng thì danh dự của họ sẽ bị tan nát, ông ấy lắp bắp: “Mày chỉ là đồ vô lại, mày muốn làm tiền phải không?” Mẹ tôi thì cuống cuồng không ngớt la lên: “Thôi ta hãy đi thôi, đi về nào!” Rồi khi thấy cửa đã bị khóa, ông ấy hét lên: “Nếu mày không mở cửa ra, tao sẽ cho tống mày vào tù về tội đe dọa và bạo lực!” Tôi mở cửa ra và họ liền lao vào trong đêm tối.

 

Và bỗng dưng tôi cảm thấy mình vừa mới bị mồ côi, bị bỏ rơi, bị ném vào cống rãnh. Một cảm giác u buồn não nề, chen lẫn hận thù ghê tởm, xâm chiếm lấy tôi; trong tôi bỗng dấy lên sự đòi hỏi về công lý, chính nghĩa, danh dự, khi tình cảm bị từ chối.

 

Tôi chạy nhanh theo dọc bờ sông Seine vì họ phải theo con đường ấy để đến nhà ga. Chẳng mấy chốc tôi đã đuổi theo kịp họ.

 

Bây giờ màn đêm đã trở nên dày đặc.

 

Tôi bước đi nhè nhẹ, rón rén trên cỏ để họ không nghe thấy. Mẹ tôi vẫn khóc nức nở. Cha tôi thì nói: “Lỗi của em đó. Tại sao em cứ nằng nặc đòi đến thăm nó? Với tình trạng hiện nay của chúng ta, đó là một việc điên rồ. Chúng ta có thể lo cho nó mà không cần phải chường mặt đến như thế. Chúng ta không thể nào nhận nó làm con một cách chính thức, tại sao phải dấn thân vô những việc nguy hiểm như thế?” Nghe đến đây, tôi liền lao đến trước mặt họ, dáng điệu cầu khẩn. Và tôi lắp bắp:

“Thấy chưa, ông bà thật sự là cha mẹ của tôi rồi. Trước đây các người đã vứt bỏ tôi, bây giờ các người còn muốn hắt hủi tôi nữa sao?” Thế rồi, dạ thưa quan toà, ông ấy đã giương cao cánh tay lên, tôi xin lấy danh dự mà thề, trên luật pháp, trên chính quyền, thưa quý vị, và ông giáng xuống người tôi. Vâng ông ấy đã đánh tôi, và khi tôi nắm lấy cổ áo ông ta, ông rút khẩu súng lục từ túi ra.

 

Tôi nhìn thấy màu đỏ, tôi cũng không biết nữa, tôi liền lấy cái com-pa trong túi ra; rồi tôi cứ thế mà đâm vào ông ta, đâm và đâm liên tục, hết sức mình. Thế rồi mẹ tôi la toáng lên: “Cứu tôi với! Cứu tôi với! Giết người!” vừa nắm lấy râu cằm của tôi. Rồi hình như là tôi cũng đã giết bà ấy.

 

Trời ơi, lúc đó tôi còn biết tôi đã làm gì hở trời?

 

Sau đó, khi nhìn thấy cả hai đều nằm bất động, tôi đã mang họ ném xuống sông Seine, không nghĩ ngợi gì nữa…

 

Sự việc là như thế đó. Bây giờ, xin hãy phán xử tôi đi.

 

Bị cáo ngồi xuống. Sau khi nghe lời thú tội như thế, phiên tòa được dời lại vào hôm sau. Và tòa sẽ xét xử thôi.

 

Đối với một vụ án như thế, nếu chúng ta là quan tòa, hoặc trong ban hội thẩm, thì chúng ta sẽ xử như thế nào đây?

 

– Guy de Maupassant

tháilan dịch

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hải đảo Ga Lang vào thời điểm 1978. Hải âu bay rợp trời. Cơm xấy, cá khô, đậu hộp và là những món ăn quen thuộc của người việt tị nạn trên đảo. Cứ đến giờ là mọi người xếp hàng đi ăn, có khi không phải là đói mà vì cả thói quen, kể cả thói quen chờ đợi, chờ đợi được làm giấy tờ. Chờ đợi được ra đi đến một quốc gia nào đó… Mỹ, Pháp, Úc, Đức… đâu cũng được thôi. Quê hương Việt Nam đã rời bỏ đi rồi, thì nổi trôi đến đâu bám tới đó...
Vài tháng nay rất nhiều bạn bè thân hữu, và nhiều sinh viên, học trò cũ, những người đã từng ngồi chung giảng đường với Nhà Tôi điện thoại hay điện thư hỏi thăm chúng tôi nhưng chúng tôi không đủ sức khỏe cũng như thì giờ để đáp lễ từng người xin Quý Vi thông cảm và vui lòng tha lỗi. Cũng xin hết lòng cảm ơn Giáo Sư Tiến Sĩ Tr. H. Bích, người rất uyên bác văn chương kim cổ đã có nhã ý muốn nhuận sắc bài viết, nhưng biết Ông rất bận rộn nên tôi không dám làm phiền Ông.
Lúc đầu tôi không biết chị bị bệnh tâm thần. Về sau tôi được nghe kể về cuộc đời của chị từ một người phụ nữ Việt Nam khác, tên Loan, đã sống ở đây nhiều năm. Nhưng những chi tiết về cuộc đời ấy hầu như ngay tức khắc trượt ra khỏi trí nhớ của tôi, tôi chỉ còn nhớ người phụ nữ mắc bệnh ấy sống ở thành phố này có lẽ ít nhất cũng hai mươi năm, nhiều người bảo chị khá đẹp khi còn trẻ, bây giờ nhìn cũng vẫn hình dung được điều đó...
Bầu không khí trong phòng giam lúc nào cũng ngột ngạt khó chịu. Nỗi khó chịu ấy cứ liên tục bao trùm đến nỗi mọi người phải quen đi như một lẽ tất nhiên. Tôi càng khổ sở hơn nhiều vì đã vướng phải bệnh ghẻ mấy tháng nay. Ghẻ mỗi ngày mỗi lan ra trên tấm thân gầy còm của tôi kéo theo luôn cả sự tàn tạ về sức khỏe. Mới vài hôm đây tôi lại mắc thêm chứng tê bại, cử động tay chân rất khó khăn. Thuốc men quá thiếu, ăn uống cũng quá thiếu, tình trạng chữa trị đối với tôi thật là bi quan...
Mùa xuân 2023. Ngoài chuyện nhớ lại mùa xuân cách nay 48 năm với “Tháng Ba Gãy Súng” (1) và “Tháng Tư Mất Nước” (2) tôi còn nhớ đến nhiều chuyện khác nữa, nhớ nơi tôi sinh ra, nhớ nơi tôi lớn lên và học hành, nhớ nơi tôi từng công tác, nhớ Sài Gòn, nhớ Đà Lạt, nhớ Nha Trang, nhớ Cần Thơ, nhớ An Giang, nhớ đèo Hải Vân, nhớ sông Vàm Cỏ…và nhớ nhớ nhiều lắm. Nằm trong bộ nhớ của tôi còn có rất nhiều người bạn – bạn thân – bạn rất thân nữa. Một người bạn rất thân là Nguyễn Đức Quang, cùng xứ, cùng trường, cùng chơi Hướng Đạo, cùng hát Du Ca…
Từ ngày ông bà cha mẹ rời miền Bắc 1954, mãi gần 70 năm sau, ngày 18 tháng hai, năm 2023, khi tôi cũng gần nửa đời người, mới lần đầu tiên được về thăm quê cha đất tổ. Đáp xuống sân bay Nội Bài vào xế trưa. Hà thành bận rộn đông đúc hơn là tôi đã mường tượng. Sau buổi chiều dạo quanh Hồ Tây, thăm các phố phường, thưởng thức vài đặc sản của Hà Nội, chúng tôi lên xe có giường nằm để ngủ qua đêm, bắt đầu cuộc hành trình trở về cội nguồn của… yêu thương. Xe chạy suốt đêm. Nhìn ra ngoài chỉ toàn một màu đen xen kẽ những chấm đèn vàng. Mọi người trên xe ai cũng có vẻ ngủ say,… Riêng tôi thì lòng lại cứ nôn nao bồi hồi khó tả!
Có thể nói ai cũng có lần nói lái ở trong đời, đôi lúc chỉ vô tình thôi. Nếu bạn buột miệng nói “đi giữa trời nắng cực quá” hoặc khi đèn điện không sáng mà bạn nói “điện sao lu quá chừng”, người nghe sẽ cho là bạn nói tục, có oan cũng đành chịu vì, dù bạn không cố ý nhưng nắng cực, điện lu nói lái nghe tục thật. Tương tự như thế, hãy cẩn thận đừng nói dồn lại, dồn lên, đồn láo, đồn lầm…
Không biết có phải do được học tập và làm việc trong môi trường lập trình điện toán nên tôi cứ nghĩ rằng mọi việc xảy ra trên thế gian này đều được an bài qua việc lập trình sẵn. Có người cho rằng sự lập trình sẵn này là định mệnh, là do ông trời sắp đặt hay do thượng đế an bài. Tuy nhiên, sau khi được tiếp cận với giáo lý nhà Phật, tôi cho rằng không ai lập trình sẵn cho cuộc đời mình, tất cả đều do nhân duyên.
Cách nay mười năm tôi có một chuyến sang Nhật Bản vào mùa xuân. Chọn đi vào dịp này là để xem anh đào ngoài chuyện viếng các thắng cảnh nổi tiếng như núi Phú Sĩ, Kim Các Tự, các đền đài, cổ thành, hào lũy… qua các thời trị vì của các tướng quân cũng như thăm một số thành phố như Tokyo, Kyoto, Kobe, Nagoya, Osaka…
Hễ mỗi lần nghe nói ai mới qua định cư xứ tự do, mà họ bày tỏ lòng biết ơn, cảm kích với quê hương thứ hai, tôi cũng thấy mát lòng mát dạ sao á!
Được biết đến nhiều nhất về một tiểu thuyết về chế độ nô lệ –Uncle Tom’s Cabin (Túp Lều của Chú Tom), xuất bản năm 1852 – tác giả Harriet Beecher Stowe, nhà văn người Mỹ gốc Âu tích cực ủng hộ chủ nghĩa bãi nô...
Thuở xưa, theo lệ thường, những cô gái được tuyển vào cung bao giờ cũng phải được các vị nữ quan hoặc các viên thái giám dạy dỗ qua một hai khóa về lễ nghi để biết phép tắc cư xử trong cung, để ôn lại bổn phận người đàn bà, v.v... Một phụ nữ từ dân giả được tuyển vào cung, dần leo lên tới địa vị quốc mẫu lẽ nào lại không trải qua những khóa giáo dục đó? Khi đã được giáo dục mà không chịu theo phép tắc, hành động vượt lễ nghi đến nỗi gây tai tiếng trong dân gian thì khó ai chấp nhận được. Những động lực thúc đẩy mấy người “đàn bà yếu đuối” ấy dám đạp đổ cả lễ nghi của triều đình thường là tình yêu, tình dục, lòng tham... Liệt kê những phụ nữ này vào hạng “lộng hành phép nước” chắc hẳn không oan!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.