Hôm nay,  

Chân đi ngàn bước, cơm ngàn nhà…

1/20/202300:00:00(View: 3018)
Anne Khánh Vân
Anne Khánh Vân và sư thầy.
 
Anne Khánh Vân, sinh năm 1974 tại Saigon, tốt nghiệp kinh tế tại Pháp và Mỹ, hiện sống và làm việc tại miền Đông Hoa Kỳ. Tham gia VVNM từ những năm đầu của giải thưởng, tác giả nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2007 với tự truyện “Duyên Nợ Với Nước Mỹ.“, nhận giải Việt Bút Trùng Quang năm 2021.

Đây là bài VVNM mới nhất của cô gửi đến Việt Báo cuối năm Nhâm Dần.
  
*
  
Cuối tuần trước tôi ra khu Eden mua một số thức ăn. Trời đã lạnh nên tôi chỉ đi thẳng đến tiệm mình cần chứ không đi dạo vòng quanh. 
 
Từ xa thấy có hàng đợi dài từ trong ra cả phía bên ngoài cửa nên tôi chỉ hướng nhanh đến phía tiệm, không nhìn những chi tiết xung quanh. Khi vừa bước vô hàng thì nghe có tiếng mời, “mua bánh tét ủng hộ chùa đi con gái.” Tôi ngước về phía có tiếng nói thì thấy một người đàn ông trong y phục của một sư thầy với một chiếc áo khoác, đầu đội nón len.  Tôi gật đầu chào và sư thầy tiếp tục nói, “thầy có bánh tét nhân đậu, nhân chay nấm đông cô đậu hũ ky và có cả bánh tét nước tro nữa con… Mua ủng hộ chùa đi con.”  
 
Thầy trông rất hiền hòa và có giọng nói rất thân thiện. Trước kia, trước mùa dịch, tôi ra khu Eden thường hơn và có thỉnh thoảng thấy một vài người ngồi phía ngoài các tiệm, giới thiệu là Phật tử công quả bán rau củ bánh trái thức ăn chay dùm chùa.  Tôi không nhớ đã từng thấy các sư cô và sư thầy tự thân ngồi bán hàng ngoài hiên, nhất là mấy hôm nay trời đã lạnh, thế nên tôi có hơi ngạc nhiên.
 
Bên cạnh chiếc ghế nhỏ thầy ngồi có một thùng giấy để đứng. Bên trên thùng đó có một thùng nhỏ để ngang qua và thầy bầy một số bánh tét và vài hộp bánh ăn vặt. Dù chưa biết thầy là ai, ở chùa nào… hình ảnh này tự dưng làm tôi xúc động. Tôi tách rời khỏi hàng đang đứng đợi và đi qua chỗ thầy ngồi. Thầy giới thiệu lại chi tiết từng loại bánh.  Tôi thích bánh ít tro và hay mua những dịp mồng năm tháng năm nhưng chưa bao giờ thấy bánh tét nước tro nên quyết định mua thử một cái. 
 
Trong lúc thầy thối tiền thì tôi hỏi thăm thầy ở chùa nào và có ai phụ thầy gói bánh hay nấu nướng không. “Có, con gái, có sư cô phụ.  Thầy ở chùa Di Đà ở Annandale. Thầy có dán số điện thoại của chùa trên lá gói, nếu con ăn thử mà thích và muốn mua thêm thì con có thể gọi đặt thầy gói thêm nghen con.”
 
*
Về đến nhà tôi ăn thử ngay bánh tét nước tro vừa mua. Quả thật bánh thầy làm rất ngon. Phần nếp trong và dẻo như những bánh ít tro và nhân đậu xanh rất dầy, mềm và dẻo, trong khi nhiều bánh ít tro có khuynh hướng nếp nhiều nhân ít. 

Tôi bèn gọi điện thoại ngay cho thầy để khen cho thầy vui nhưng không ai trả lời phone. Chắc thầy vẫn còn bán hàng, chưa về lại chùa.
Chiều tối thầy gọi lại và quả thật thầy đã rất vui. Thầy gửi cho tôi xem hình khi thầy vừa vớt bánh và bầy bánh trên bàn cho ráo. Mỗi tuần sư cô và sư thầy gói 120 bánh tét.  Xem hình thật thích.
 
Mấy năm rồi tôi không thường lui tới khu Eden nên không rõ sinh hoạt thường ngày ngoài ấy. Tôi cũng không biết hết tất cả các ngôi chùa trong vùng nên không biết hết các sư cô và sư thầy. Tối hôm đó tôi nhắn tin hỏi chuyện với cô Lý. Cô Lý là Phật tử thuần thục và có văn phòng TSN ngoài Eden mấy chục năm qua. Chắc cô biết nhiều sư cô sư thầy.
 
Thế là hai cô cháu lại có dịp chuyện trò các món chay. Mỗi ngày sư cô chùa Di Đà ra Eden bỏ mối các món chay cho vài hàng quán và những ai đặt thức ăn chay với cô thầy. Cô Lý khen chả giò của chùa làm cũng rất ngon. Vài ngày sau tôi đã đến chùa mua thêm ba bánh tét nước tro và cũng mua thêm hai chục chả giò.  Sau đó tôi được biết sư cô ở cùng chùa và phụ thầy làm bánh và nấu các món chay là em ruột của thầy. 
 
 
Chùa… Chuồng Bò
 
Trước đó vài năm chúng tôi đã có duyên lành lui đến thăm chùa Xá Lợi ở Frederick tiểu bang Maryland. Một kỳ tích đáng được biết đến để khâm phục và quý trọng. Thầy viện chủ là một võ sư Nga My Phật Gia Quyền. Thầy và các võ sinh đã biến chuồng bò ở một nông trại bỏ hoang như một sở rác trở thành một ngôi chùa nghiêm trang và đầy từ hạnh. Thời gian đầu sau khi mua đất và trong lúc xây dựng chùa, thầy đi làm McDonald để có chi phí trả nợ tiền mua đất. Chùa dần được hình thành và công việc xây dựng cứ tiếp tục cho đến hôm nay, khoảng 20 năm.
Chùa vẫn còn những hình ảnh ngày xưa, khi chuồng bò còn như một sở rác. Cái cảnh mà theo cụ Nguyễn Du ngày xưa đã từng nói:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng…
 
*
Lúc nhỏ tôi nhớ có xem một cuốn phim kể chuyện một linh mục trong khu đạo nghèo nuôi rất nhiều trẻ em mồ côi. Ông đánh box như nguồn thu nhập để lo cho các em. Dù xem phim đã hơn ba chục năm, một cảnh trong phim mà tôi không thể nào quên là trận đấu sinh tử tưởng chừng người linh mục đã mất mạng. Ngài đã lớn tuổi và cũng không phải người đánh box chuyên nghiệp. Hôm đó ngài bị đối phương tấn công thê thảm.  Trận đấu rất căng thẳng. Mặt mày ngài sưng vù máu me. Một… Hai… Ba… Người linh mục vẫn nằm thẳng đơ.  Bảy… Tám… Chín… Và động lực vực ngài đứng lên lại được và thắng trận, có tiền đem về khi ngài nghĩ đến các trẻ em và nghe tiếng các em kêu tên mình. Chuyện phim dựa trên một chuyện thật ở Mexico.  
 
Chúng ta tận mắt nhìn thấy đầy dẫy những hành động, việc làm phung phí hàng ngày, khắp mọi nơi. Vậy nên khi chứng kiến cảnh các cha, các thầy, các sơ, các ni-cô làm việc, lao động cực nhọc để có nguồn tài chính cho chùa, cho nhà thờ, cho các công việc từ thiện… tôi như được nhắc nhớ dường như mình vẫn tiết kiệm chưa đủ.
 
Nước Sạch
 
Thời gian còn làm việc với AECOM International Development, hàng tháng chúng tôi luôn được thông báo những cập nhật về kết quả của các công trình phát triển kinh tế ở những nước đang phát triển, nào là công trình làm tàu điện ngầm, xây đường xa lộ, phát triển hệ thống nhà thương… Tôi đặc biệt quan tâm theo dõi tiến triển của dự án phát triển hệ thống nước và làm sạch nước ở Châu Phi.  Hình ảnh trong các email gửi ra cho nhân viên xem là do chính nhân viên của công ty đã ghi nhận lại khi công tác bên ấy.

Đọc các mẩu chuyện trên phúc trình và xem hình ảnh mỗi ngày các em nhỏ, các gia đình chỉ hứng được một sô nước vàng đục để dùng cho cả nhà trong ngày, rất xúc động. Những dịp đó, công ty kêu gọi mọi người nên tập tiết kiệm nước sạch.
 
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta có rất nhiều cơ hội để tiết kiệm.  Ở xứ lạnh, mùa lạnh, nước cần xả ra một chút trước khi nước được nấu ấm chảy đến đầu vòi. Bao nhiêu trong chúng ta hứng lại nước sạch đó để dùng cho việc gì khác hữu dụng sau đó?  Hay là chúng ta cứ để cho nước sạch đó chảy ào ào xuống cống?
Trong những buổi hội họp, mỗi người được phát một bình nước. Nhiều quan khách chỉ mở ra hớp một miếng và bỏ lại. Khi dọn dẹp sau buổi hội họp, chúng ta giải quyết những bình nước đó ra sao?
 
Mùa hè năm 2000 khi Đức Giáo Hoàng John Paul đệ nhị và Roma đón chào khoảng hai triệu bạn trẻ từ khắp nơi trên thế giới đến dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, tôi cũng lẫn lộn trong số các bạn trẻ đó. Chúng tôi rảo bộ mấy chục cây số mỗi ngày trên các đường phố, con hẽm, viện bảo tàng, nhà thờ,… ở Roma. Vì số lượng giới trẻ khách tham dự quá lớn, Đức Giáo Hoàng và Roma đã tận dụng hết tất cả chỗ trống trong các trường học, sân vận động, trung tâm sinh hoạt cộng đồng… làm nơi cho chúng tôi tá túc ngủ nghỉ trong suốt tuần lễ dự đại hội.  Lo cơm nước ba bữa mỗi ngày cho hai triệu người đã là cả một việc lớn. Làm sao giải quyết chuyện tắm giặt hàng ngày cho cái bọn cuối ngày người đứa nào cũng chua lòm, mồ hôi rít hít áo vào da?
 
Bạn có thoáng nghĩ ra giải pháp chăng?
 
Không tắm sẽ không thể ngủ được dù có mệt rã rời cách mấy. Chúng tôi phải xếp hàng và mỗi đứa sẽ được hứng một xô nước khoảng hai gallon. Nước lạnh! Không có nhiều nước, và cũng không có thời gian để mỗi người tắm lâu hơn ba phút. Tắm nhanh, sạch và đi ra để người sau đi vô. Mỗi địa điểm như vậy có đến mấy trăm người. Đêm đầu còn vụng về và tắm sót. Chỗ ướt chỗ khô. Sang đêm thứ hai tự dưng biết cách xoay sở với mớ nước giới hạn đó và từ đầu xuống chân đều trôi sạch mồ hôi. Mát mẻ, sạch sẽ, khỏe khoắn… chui vào túi ngủ san sát bên nhau và thi nhau ngáy… o o vô cùng hạnh phúc.
 
Rõ ràng là sự phung phí hay tiết kiệm đều do thói quen và có thể luyện tập và thay đổi thích nghi rất nhanh. Cho đến hôm nay, tôi vẫn còn thói quen dùng nước rất tiết kiệm.
 
*
Thụt lùi khoảng bốn chục năm trước khi tôi còn ở cái xóm nghèo An Phú Cống Bà Sếp, Hoà Hưng, mỗi lần đi theo nội đi chợ, thỉnh thoảng tôi có được thấy những đoàn khất sĩ đi qua. Các ngài đầu trần chân đất bước đi thật chậm rãi, đều đặn và ngừng lại mỗi khi được thí thực. Có khi đoàn khất sĩ đi vào trong các xóm nhỏ. Khi đi ngang qua nhà, nội tôi chạy ra, mở nắp khăn trên bình bát, để bánh trái vào và đậy khăn lại. Các khất sĩ lại chậm rãi bước đi và ngừng lại vài chục giây trước mỗi nhà.  
 
Nội giải thích các thầy đi khất thực đồng thời tạo cơ hội cho chúng sinh tạo Phước khi cúng dường chia sẻ. 
Những hình ảnh thật an bình đó luôn khắc ghi trong trí nhớ thời thơ ấu của tôi. Và tôi luôn rất xúc động mỗi khi nhìn thấy những hình ảnh tương tự.  
 
Giây phút khi ngước lên nhìn thấy cảnh thầy ngồi bên hiên bán bánh tét, tôi đã nhớ lại hình ảnh đoàn khất sĩ năm xưa.  Ngày nay, khi mọi thứ không còn bị giới hạn bởi biên giới đất liền hay thông tin truyền thông, hình thức khất sĩ của các quý cha, quý thầy cũng thích nghi hơn với hoàn cảnh. Có thể là những chuyến đi giảng pháp, chia sẻ lời Chúa… từ châu lục này sang châu lục khác; có thể là những đêm không ngủ vì phải đợi máy bay bị trở ngại vì bão tuyết; có thể là những món ăn chay gieo duyên ăn chay…
 
Cảm ơn quý thầy, quý cha, quý sơ, quý cô… đã cho con có cơ hội được ủng hộ, được chia sẻ… và quan trọng hơn khi con đã được nhắc nhớ những thói quen mà ngày xưa nội ngoại đã gieo mầm trong con.
 
Có những nơi dư thừa phương tiện, nơi khác vô cùng hạn chế. Có những nơi khá giả, thừa thãi; nơi khác túng thiếu đói rét… Và chỉ khi mọi thứ giới hạn và khi chúng ta biết chi tiết quá trình từng thứ được tạo ra, và nhận biết khi không có là như thế nào, thì mình mới thật biết trân quý. 
 
Ông ngoại Cả Viên của tôi thường nói, “chờ đến khi mình dư giả mới chia, mới cho… thì có thể người ta đã chết, hoặc chẳng còn cần nữa!”  Dư giả và chia sẻ tạo phước mười thì nếu khó khăn mà vẫn tập tiết kiệm và chia sẻ thì tạo phước gấp bội. Tôi luôn nhớ ông dạy như vậy.
 
Chân đi ngàn bước, cơm ngàn nhà…
Một bình bát, một cà sa
Một bầu khất thực, ơn là trăm năm!
 
Ơn Thầy dừng lại
Cho con chung phần…
 
Anne Khánh Vân
Những ngày cuối năm Nhâm Dần
 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Đó là món ăn để những bà con xa gần, những bằng hữu hay những láng giềng thân quen chan hòa xì xụp nhân ngày kỵ giỗ, ngày mừng lúc mới hay bất cứ dịp vui nào đó. Đó là cái hồn của những quán lá liêu xiêu bên con đường đất hay sùm sụp một góc chợ quê, vỏn vẹn vài ba cái bàn gỗ chông chênh, có những ống đựng đũa bằng tre, có thêm chai rượu đóng nút bằng cùi bắp hay bằng nắm lá chuối khô cuộn tròn kề bên. Đó là những cái tô tai bèo vàng rượm những sợi mì màu nghệ hay trắng tinh màu gạo, lác đác những khoanh ớt đỏ rói, những hạt đậu phộng rang chín vỡ tan màu nâu nhạt, thêm vào những mảnh bánh tráng khô nướng lấm tấm hạt mè. Đó là món ăn mà, bên tiếng vỡ lắc cắc của những cái bánh tráng giòn tan, bên những tiếng “khà” bật ra sau một ngụm rượu đế, người ta rổn rảng kể chuyện mùa màng, chuyện chòm xóm, chuyện gia sự con cái và cả chuyện nước non chính sự nữa. “Hương vị riêng” của mì Quảng, một phần, nằm ở sự chan hòa, sự mộc mạc và xuề xòa ấy.
Thế là gã tỉnh ra, tỉnh hẳn như người lim dim chợt thấy kẻ trộm vào nhà, tỉnh tợ như chơi xì ke vừa vã thuốc gặp cảnh sát. Nói theo lối thiền gia thì gã ngộ, đã một thời gian dài gã cứ thấy cái gì ngộ ngộ là vác, giờ thì khác rồi, không vác nữa nên ngộ hay là ngộ mà không vác nữa thì gã cũng chẳng phân biệt được! Đời vốn đã ngộ mà gã còn ngộ hơn đời, bởi thế mà bạn bè thân sơ đều gọi là gã khờ.
Nhân bài văn của cháu ngoại về phở nên “bàn hươu tán vượn” vể phở và cuốn sách “A Phở Love Story”, rất tiếc báo chí Việt ngữ ở Mỹ không khuyến khích giới thiệu nhiều về quyển sách nầy, cây bút trẻ Loan Le có ý nghĩ chọn món ăn của quê hương để viết cho độc giả Mỹ qua chuyện tình tuổi teen với bìa sách chân dung đôi bạn trẻ (trai, gái) với tô phở thật ý nghĩa.
Cuộc đời của thiên tài Steve Jobs mãi mãi ngừng ở tuổi 56 để lại tiếc thương cho cả triệu người khắp thế giới. Đóng góp của ông cho khoa học đã tạo cảm hứng cho họa sĩ Gudjonsson vẽ hình ông cầm trái táo đứng trước cửa thiên đường, kèm theo lời chú thích : "Có ba trái táo trong lịch sử của nhân loại : trái táo của ông Adam, trái táo của ông Newton, và trái táo của ông Jobs.”
Ca dao bình dân thì đơn giản hơn nhưng cũng rất tha thiết: ”Gió đâu gió thổi sau lưng/ Dạ đâu dạ nhớ người dưng vô cùng”. Rõ ràng cái nhớ thiết tha biết bao, tưởng chừng “Người dưng” rất xa lạ, mơ hồ nhưng lại nhớ không quên.
Mấy tháng trước đây chúng tôi đã gặp một cặp chồng Mỹ vợ Việt tại nhà thờ Saint Patrick trong buổi lễ tang của một bà đồng hương già trên 95 tuổi. Bà Th. trước 75 làm sở Mỹ có chồng lính Mỹ là người sớm nhất đến thành phố chúng tôi đang ở. Những người Việt đến sau như tôi thường đến tá túc một vài tháng đầu tiên tại nhà bà. Lễ tang của bà tập họp gần như đầy đủ người Việt đã từng quen biết bà trong đó có cặp chồng Mỹ vợ Việt nầy đến từ một thành phố khác.
Sống thế nào và sống với nhau ra sao, không dễ. Cả một quá trình tập luyện kiên trì… Ai cũng biết giữ cho “thân hình thon gọn” vừa “đẹp” vừa tốt cho sức khỏe, nhưng mấy ai có thể ăn uống kiêng khem, vận động hằng ngày năm nầy qua năm khác. Hay bước tới trước một bước thì bước lùi sau hai bước!
Thời gian gia đình còn kẹt lại Việt Nam, tuy tuổi đời còn non dại, Nga đã nhìn đời bằng tâm thức của một thiếu nữ trưởng thành. Trong khi đó, tại Hoa Kỳ, Phong được nuông chiều, cho nên, Phong rất vô tư. Thấy Nga không tỏ vẻ háo hức về tin chàng có xe mới, Phong hỏi lơ chuyện khác: -Sáng nay ai đưa Nga đến trường? -Ông xe “bus”. -Từ nay có xe mới, anh sẽ đưa và đón em thường xuyên. -Cảm ơn anh. -Đi, đi với anh ra xem xe mới. -Thôi, anh lấy xe vào đón Nga đi! -Ok, “sir”! Nhìn theo dáng người dong dỏng cao của Phong, Nga thở dài, nghĩ đến Huân – người anh xa vắng của nàng. Hình ảnh Huân đang chờn vờn trong tâm tưởng của Nga thì chiếc xe thể thao màu đỏ dừng sát lề đường. Phong chồm ra, cười. Đối với một sinh viên vừa thoát khỏi “đáy địa ngục” của cộng sản Việt Nam (csVN) vào thời bao cấp – như Nga – thì chiếc xe này phải là một giấc mơ không tưởng! Thế mà Phong không hiểu tại sao Nga vẫn tỏ vẻ dững dưng.
Chị ôm chầm lấy con. Tí giờ đây cao lớn hơn mẹ nhiều, đã ra dáng thanh niên. Nhưng Tí vẫn là đứa con bé bỏng trong vòng tay của chị. Đứa con ước ao một món quà thuở nhỏ, mà mãi đến giờ, và sẽ không bao giờ, chị có thể tặng cho con. Lòng chị dâng lên niềm thương yêu con vô bờ. Chị nghe tiếng mình thầm hứa với con: - Ba mẹ luôn luôn gần nhau để con vui mãi, nhé con yêu.
Em nhìn lên trăng qua khung cửa sổ. Đêm nay trăng đã tròn. Trăng chiếu vào nơi Bà Ngoại ngồi. Em thấy nhớ Bà Ngoại quá! Chú Cuội, Chị Hằng đi vắng rồi! Chỉ còn vầng trăng trải một màu thương nhớ. Bỗng em nghe tiếng Mẹ thì thầm. Em lắng nghe. Mẹ ở trong phòng. Mẹ đang nói chuyện điện thoại với Ba. Tiếng của Mẹ nghe khác lạ. “Có gì thì anh về nhé!”
Thiên đạp xe hết tốc lực, cái sức một thằng bé mười lăm tuổi đang nhổ giò phát lớn cộng với sự háo hức chờ mấy ngày qua, chẳng mấy chốc là đến nhà nội. Nhà nội Thiên ở quê, cách thị trấn chừng ba cây số, ngôi nhà nằm giữa một vườn cây xanh mát nào là mít, ổi, xoài, chanh, khế… ra khỏi vườn cây là đến rẫy mía phía sau nhà.
Ngày cuối tuần tôi theo đám trẻ đi rước đèn tháng Tám. Đàn em bé ca hát rộn ràng những bài hát Trung Thu của Sài Gòn ngày trước. Những cái đèn giấy đủ mọi hình dạng. Có thật nhiều đèn cá chép. Những con cá chép mập ú, tròn quay, có ngọn nến lung linh mờ ảo bên trong. Đám rước chỉ thiếu những chiếc đèn làm bằng giấy bóng kính trong suốt. Những chiếc đèn đủ sắc màu. Lũ trẻ một tay níu tay mẹ, tay bà, tay bố, tay anh, tay chị; một tay cầm khúc que ngắn với chiếc đèn treo ở đầu. Ríu rít theo chân nhau đi dọc theo đoạn đường ngắn ngủn bọc quanh ngôi chùa, dưới ánh đèn đường nhạt nhòa. Những chiếc đèn trung thu, bầy trẻ nhỏ, những câu hát quen, giọng trẻ thơ ê a đưa tôi về những ngày thơ ấu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.