Hôm nay,  

Chân đi ngàn bước, cơm ngàn nhà…

1/20/202300:00:00(View: 3015)
Anne Khánh Vân
Anne Khánh Vân và sư thầy.
 
Anne Khánh Vân, sinh năm 1974 tại Saigon, tốt nghiệp kinh tế tại Pháp và Mỹ, hiện sống và làm việc tại miền Đông Hoa Kỳ. Tham gia VVNM từ những năm đầu của giải thưởng, tác giả nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2007 với tự truyện “Duyên Nợ Với Nước Mỹ.“, nhận giải Việt Bút Trùng Quang năm 2021.

Đây là bài VVNM mới nhất của cô gửi đến Việt Báo cuối năm Nhâm Dần.
  
*
  
Cuối tuần trước tôi ra khu Eden mua một số thức ăn. Trời đã lạnh nên tôi chỉ đi thẳng đến tiệm mình cần chứ không đi dạo vòng quanh. 
 
Từ xa thấy có hàng đợi dài từ trong ra cả phía bên ngoài cửa nên tôi chỉ hướng nhanh đến phía tiệm, không nhìn những chi tiết xung quanh. Khi vừa bước vô hàng thì nghe có tiếng mời, “mua bánh tét ủng hộ chùa đi con gái.” Tôi ngước về phía có tiếng nói thì thấy một người đàn ông trong y phục của một sư thầy với một chiếc áo khoác, đầu đội nón len.  Tôi gật đầu chào và sư thầy tiếp tục nói, “thầy có bánh tét nhân đậu, nhân chay nấm đông cô đậu hũ ky và có cả bánh tét nước tro nữa con… Mua ủng hộ chùa đi con.”  
 
Thầy trông rất hiền hòa và có giọng nói rất thân thiện. Trước kia, trước mùa dịch, tôi ra khu Eden thường hơn và có thỉnh thoảng thấy một vài người ngồi phía ngoài các tiệm, giới thiệu là Phật tử công quả bán rau củ bánh trái thức ăn chay dùm chùa.  Tôi không nhớ đã từng thấy các sư cô và sư thầy tự thân ngồi bán hàng ngoài hiên, nhất là mấy hôm nay trời đã lạnh, thế nên tôi có hơi ngạc nhiên.
 
Bên cạnh chiếc ghế nhỏ thầy ngồi có một thùng giấy để đứng. Bên trên thùng đó có một thùng nhỏ để ngang qua và thầy bầy một số bánh tét và vài hộp bánh ăn vặt. Dù chưa biết thầy là ai, ở chùa nào… hình ảnh này tự dưng làm tôi xúc động. Tôi tách rời khỏi hàng đang đứng đợi và đi qua chỗ thầy ngồi. Thầy giới thiệu lại chi tiết từng loại bánh.  Tôi thích bánh ít tro và hay mua những dịp mồng năm tháng năm nhưng chưa bao giờ thấy bánh tét nước tro nên quyết định mua thử một cái. 
 
Trong lúc thầy thối tiền thì tôi hỏi thăm thầy ở chùa nào và có ai phụ thầy gói bánh hay nấu nướng không. “Có, con gái, có sư cô phụ.  Thầy ở chùa Di Đà ở Annandale. Thầy có dán số điện thoại của chùa trên lá gói, nếu con ăn thử mà thích và muốn mua thêm thì con có thể gọi đặt thầy gói thêm nghen con.”
 
*
Về đến nhà tôi ăn thử ngay bánh tét nước tro vừa mua. Quả thật bánh thầy làm rất ngon. Phần nếp trong và dẻo như những bánh ít tro và nhân đậu xanh rất dầy, mềm và dẻo, trong khi nhiều bánh ít tro có khuynh hướng nếp nhiều nhân ít. 

Tôi bèn gọi điện thoại ngay cho thầy để khen cho thầy vui nhưng không ai trả lời phone. Chắc thầy vẫn còn bán hàng, chưa về lại chùa.
Chiều tối thầy gọi lại và quả thật thầy đã rất vui. Thầy gửi cho tôi xem hình khi thầy vừa vớt bánh và bầy bánh trên bàn cho ráo. Mỗi tuần sư cô và sư thầy gói 120 bánh tét.  Xem hình thật thích.
 
Mấy năm rồi tôi không thường lui tới khu Eden nên không rõ sinh hoạt thường ngày ngoài ấy. Tôi cũng không biết hết tất cả các ngôi chùa trong vùng nên không biết hết các sư cô và sư thầy. Tối hôm đó tôi nhắn tin hỏi chuyện với cô Lý. Cô Lý là Phật tử thuần thục và có văn phòng TSN ngoài Eden mấy chục năm qua. Chắc cô biết nhiều sư cô sư thầy.
 
Thế là hai cô cháu lại có dịp chuyện trò các món chay. Mỗi ngày sư cô chùa Di Đà ra Eden bỏ mối các món chay cho vài hàng quán và những ai đặt thức ăn chay với cô thầy. Cô Lý khen chả giò của chùa làm cũng rất ngon. Vài ngày sau tôi đã đến chùa mua thêm ba bánh tét nước tro và cũng mua thêm hai chục chả giò.  Sau đó tôi được biết sư cô ở cùng chùa và phụ thầy làm bánh và nấu các món chay là em ruột của thầy. 
 
 
Chùa… Chuồng Bò
 
Trước đó vài năm chúng tôi đã có duyên lành lui đến thăm chùa Xá Lợi ở Frederick tiểu bang Maryland. Một kỳ tích đáng được biết đến để khâm phục và quý trọng. Thầy viện chủ là một võ sư Nga My Phật Gia Quyền. Thầy và các võ sinh đã biến chuồng bò ở một nông trại bỏ hoang như một sở rác trở thành một ngôi chùa nghiêm trang và đầy từ hạnh. Thời gian đầu sau khi mua đất và trong lúc xây dựng chùa, thầy đi làm McDonald để có chi phí trả nợ tiền mua đất. Chùa dần được hình thành và công việc xây dựng cứ tiếp tục cho đến hôm nay, khoảng 20 năm.
Chùa vẫn còn những hình ảnh ngày xưa, khi chuồng bò còn như một sở rác. Cái cảnh mà theo cụ Nguyễn Du ngày xưa đã từng nói:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng…
 
*
Lúc nhỏ tôi nhớ có xem một cuốn phim kể chuyện một linh mục trong khu đạo nghèo nuôi rất nhiều trẻ em mồ côi. Ông đánh box như nguồn thu nhập để lo cho các em. Dù xem phim đã hơn ba chục năm, một cảnh trong phim mà tôi không thể nào quên là trận đấu sinh tử tưởng chừng người linh mục đã mất mạng. Ngài đã lớn tuổi và cũng không phải người đánh box chuyên nghiệp. Hôm đó ngài bị đối phương tấn công thê thảm.  Trận đấu rất căng thẳng. Mặt mày ngài sưng vù máu me. Một… Hai… Ba… Người linh mục vẫn nằm thẳng đơ.  Bảy… Tám… Chín… Và động lực vực ngài đứng lên lại được và thắng trận, có tiền đem về khi ngài nghĩ đến các trẻ em và nghe tiếng các em kêu tên mình. Chuyện phim dựa trên một chuyện thật ở Mexico.  
 
Chúng ta tận mắt nhìn thấy đầy dẫy những hành động, việc làm phung phí hàng ngày, khắp mọi nơi. Vậy nên khi chứng kiến cảnh các cha, các thầy, các sơ, các ni-cô làm việc, lao động cực nhọc để có nguồn tài chính cho chùa, cho nhà thờ, cho các công việc từ thiện… tôi như được nhắc nhớ dường như mình vẫn tiết kiệm chưa đủ.
 
Nước Sạch
 
Thời gian còn làm việc với AECOM International Development, hàng tháng chúng tôi luôn được thông báo những cập nhật về kết quả của các công trình phát triển kinh tế ở những nước đang phát triển, nào là công trình làm tàu điện ngầm, xây đường xa lộ, phát triển hệ thống nhà thương… Tôi đặc biệt quan tâm theo dõi tiến triển của dự án phát triển hệ thống nước và làm sạch nước ở Châu Phi.  Hình ảnh trong các email gửi ra cho nhân viên xem là do chính nhân viên của công ty đã ghi nhận lại khi công tác bên ấy.

Đọc các mẩu chuyện trên phúc trình và xem hình ảnh mỗi ngày các em nhỏ, các gia đình chỉ hứng được một sô nước vàng đục để dùng cho cả nhà trong ngày, rất xúc động. Những dịp đó, công ty kêu gọi mọi người nên tập tiết kiệm nước sạch.
 
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta có rất nhiều cơ hội để tiết kiệm.  Ở xứ lạnh, mùa lạnh, nước cần xả ra một chút trước khi nước được nấu ấm chảy đến đầu vòi. Bao nhiêu trong chúng ta hứng lại nước sạch đó để dùng cho việc gì khác hữu dụng sau đó?  Hay là chúng ta cứ để cho nước sạch đó chảy ào ào xuống cống?
Trong những buổi hội họp, mỗi người được phát một bình nước. Nhiều quan khách chỉ mở ra hớp một miếng và bỏ lại. Khi dọn dẹp sau buổi hội họp, chúng ta giải quyết những bình nước đó ra sao?
 
Mùa hè năm 2000 khi Đức Giáo Hoàng John Paul đệ nhị và Roma đón chào khoảng hai triệu bạn trẻ từ khắp nơi trên thế giới đến dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, tôi cũng lẫn lộn trong số các bạn trẻ đó. Chúng tôi rảo bộ mấy chục cây số mỗi ngày trên các đường phố, con hẽm, viện bảo tàng, nhà thờ,… ở Roma. Vì số lượng giới trẻ khách tham dự quá lớn, Đức Giáo Hoàng và Roma đã tận dụng hết tất cả chỗ trống trong các trường học, sân vận động, trung tâm sinh hoạt cộng đồng… làm nơi cho chúng tôi tá túc ngủ nghỉ trong suốt tuần lễ dự đại hội.  Lo cơm nước ba bữa mỗi ngày cho hai triệu người đã là cả một việc lớn. Làm sao giải quyết chuyện tắm giặt hàng ngày cho cái bọn cuối ngày người đứa nào cũng chua lòm, mồ hôi rít hít áo vào da?
 
Bạn có thoáng nghĩ ra giải pháp chăng?
 
Không tắm sẽ không thể ngủ được dù có mệt rã rời cách mấy. Chúng tôi phải xếp hàng và mỗi đứa sẽ được hứng một xô nước khoảng hai gallon. Nước lạnh! Không có nhiều nước, và cũng không có thời gian để mỗi người tắm lâu hơn ba phút. Tắm nhanh, sạch và đi ra để người sau đi vô. Mỗi địa điểm như vậy có đến mấy trăm người. Đêm đầu còn vụng về và tắm sót. Chỗ ướt chỗ khô. Sang đêm thứ hai tự dưng biết cách xoay sở với mớ nước giới hạn đó và từ đầu xuống chân đều trôi sạch mồ hôi. Mát mẻ, sạch sẽ, khỏe khoắn… chui vào túi ngủ san sát bên nhau và thi nhau ngáy… o o vô cùng hạnh phúc.
 
Rõ ràng là sự phung phí hay tiết kiệm đều do thói quen và có thể luyện tập và thay đổi thích nghi rất nhanh. Cho đến hôm nay, tôi vẫn còn thói quen dùng nước rất tiết kiệm.
 
*
Thụt lùi khoảng bốn chục năm trước khi tôi còn ở cái xóm nghèo An Phú Cống Bà Sếp, Hoà Hưng, mỗi lần đi theo nội đi chợ, thỉnh thoảng tôi có được thấy những đoàn khất sĩ đi qua. Các ngài đầu trần chân đất bước đi thật chậm rãi, đều đặn và ngừng lại mỗi khi được thí thực. Có khi đoàn khất sĩ đi vào trong các xóm nhỏ. Khi đi ngang qua nhà, nội tôi chạy ra, mở nắp khăn trên bình bát, để bánh trái vào và đậy khăn lại. Các khất sĩ lại chậm rãi bước đi và ngừng lại vài chục giây trước mỗi nhà.  
 
Nội giải thích các thầy đi khất thực đồng thời tạo cơ hội cho chúng sinh tạo Phước khi cúng dường chia sẻ. 
Những hình ảnh thật an bình đó luôn khắc ghi trong trí nhớ thời thơ ấu của tôi. Và tôi luôn rất xúc động mỗi khi nhìn thấy những hình ảnh tương tự.  
 
Giây phút khi ngước lên nhìn thấy cảnh thầy ngồi bên hiên bán bánh tét, tôi đã nhớ lại hình ảnh đoàn khất sĩ năm xưa.  Ngày nay, khi mọi thứ không còn bị giới hạn bởi biên giới đất liền hay thông tin truyền thông, hình thức khất sĩ của các quý cha, quý thầy cũng thích nghi hơn với hoàn cảnh. Có thể là những chuyến đi giảng pháp, chia sẻ lời Chúa… từ châu lục này sang châu lục khác; có thể là những đêm không ngủ vì phải đợi máy bay bị trở ngại vì bão tuyết; có thể là những món ăn chay gieo duyên ăn chay…
 
Cảm ơn quý thầy, quý cha, quý sơ, quý cô… đã cho con có cơ hội được ủng hộ, được chia sẻ… và quan trọng hơn khi con đã được nhắc nhớ những thói quen mà ngày xưa nội ngoại đã gieo mầm trong con.
 
Có những nơi dư thừa phương tiện, nơi khác vô cùng hạn chế. Có những nơi khá giả, thừa thãi; nơi khác túng thiếu đói rét… Và chỉ khi mọi thứ giới hạn và khi chúng ta biết chi tiết quá trình từng thứ được tạo ra, và nhận biết khi không có là như thế nào, thì mình mới thật biết trân quý. 
 
Ông ngoại Cả Viên của tôi thường nói, “chờ đến khi mình dư giả mới chia, mới cho… thì có thể người ta đã chết, hoặc chẳng còn cần nữa!”  Dư giả và chia sẻ tạo phước mười thì nếu khó khăn mà vẫn tập tiết kiệm và chia sẻ thì tạo phước gấp bội. Tôi luôn nhớ ông dạy như vậy.
 
Chân đi ngàn bước, cơm ngàn nhà…
Một bình bát, một cà sa
Một bầu khất thực, ơn là trăm năm!
 
Ơn Thầy dừng lại
Cho con chung phần…
 
Anne Khánh Vân
Những ngày cuối năm Nhâm Dần
 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Cái lạnh hỗn xược xoáy vào da thịt. Tôi nhìn quanh, trong đám người lũ lượt chung quanh. Ai cũng bó chặt thân hình bằng những chiếc áo mùa đông dầy cộm. Ai cũng xù xì như những con gấu Bắc Cực. Bầu trời xám trên cao hạ thấp xuống gần như chạm vào những mái nhà của thành phố. Dường như chỉ mình tôi là mặc không đủ ấm. Ban nãy, lúc tôi bước ra khỏi cửa chung cư cái lạnh quấn lấy tôi. Cái lạnh vạch mép áo mùa thu và luồn vào dưới lớp áo sơ mi và áo lót tôi mặc. Cái lạnh vuốt ve suồng sã lên ngực tôi. Đã lâu không ai cho tôi cảm giác ấy. Tôi vòng hai tay trước ngực che gió và giữ ấm cho chính mình. Tôi ngại những trận cúm mùa đông. Cảm giác ấm áp lan tỏa trên da dù cái lạnh vẫn gai gai trên mặt.
Lá đổ ào ạt, từng mảng lá rụng đồng loạt, từng bựng lá bay như đàn bướm. Trời cuối thu, mặt đất phủ đầy lá, đâu đâu cũng lá. Rừng cây đã gần trơ trọi, những khoảng trống, những thân cây như bộ xương cắm trên mặt đất cố vươn những cánh tay lên hư không. Lão Omeehar bệ vệ trong bộ lông xanh đen pha xám, mào và tích lòng thòng chảy dài. Lão nặng đến ba mươi cân Anh chứ ít sao, lúc nào cũng khệnh khạng dẫn ba mụ vợ và đàn con đi loanh quanh kiếm ăn.
Suy cho kỹ, nghĩ cho cùng, tôi cũng toại nguyện với giấc mơ làm tầm gửi của mình. Ngày xa xưa, hoa Phong lan là loài thực vật sống ký sinh trên những cành cây khác. Mà bây giờ, văn minh đã biến loài hoa này thành những giống hoa hoàn toàn tự lập!
Năm 1992, tôi là nhân viên của Trung Tâm Người Á Châu, Asian Human Services in Chicago. Tôi được đặc trách làm tư vấn cho học sinh gốc Đông Dương tại các trường cấp ba-high schools- ở trong vùng Uptown-Chicago. Tôi có văn phòng và họp thư riêng ở mỗi trường. Chủ yếu của chương trình là dạy thêm Anh ngữ cho các cháu tị nạn mới qua.
An mơ màng mộng mị, hình ảnh ngồi thu lu ở cái xó gần chỗ nối hai đầu toa xe lửa cứ bập bềnh theo nhịp lắc lư của toa tàu. Mùi khai thối khăm khẳm tưởng đã quen nhưng có lúc vẫn buồn nôn muốn ói. Bên ngoài khung cửa sổ, trời vừa lờ mờ sáng, phố xá con im lìm ngái ngủ, những ngọn đèn hai bên đường vẫn còn tỏa ánh sáng vàng vọt xuống mặt đường.
Nàng chợt nhớ “bất phương trình”: tình- yêu/người-yêu hôm nào đây nàng và chị bạn mằn mò tìm cách giải đáp. Hình ảnh sầu não của chị bạn khi nhắc đến hư hao trong tình cảm hiện rõ trong trí nàng. Phút chốc, nàng thấy mình cũng chông chênh, xiêu vẹo trong nỗi buồn sắp sửa đánh mất niềm yêu. Nàng vẫn mong chàng đứng xa xa bên kia hàng rào, hát hò, thơ thẩn. Bên này, nàng cuống quýt, bâng khuâng nghe tiếng chàng ầu ơ câu ca dao ngọt ngào: “Thò tay mà ngắt ngọn ngò/Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ.” Bỗng nhiên, tai nàng văng vẳng câu ca dao khác, nghèn nghẹn. Nàng cúi xuống, gõ nhẹ bàn phím, những giọt nước mắt lặng lẽ nhỏ xuống bàn. Nếu nàng dùng bút mực như thuở xưa, chàng sẽ thấy câu ca dao bị nhòe nhoẹt vài chữ: “Yêu nhau mà đứng đàng xa/ Con mắt liếc lại bằng ba đứng gần”.
Chủ Nhật tươi hồng, xóm nhỏ nơi tôi ở bỗng rộn ràng, nhộn nhịp, khác hẳn với những Chủ Nhật im ắng thường lệ, là ngày nghỉ ngơi của mọi người. Xóm tôi nằm cuối làng Rất Gần (Rödgen đọc tiếng Đức nghe giống như “Rất Gần”), thuộc thành phố Bad Nauheim, một thành phố nghỉ dưỡng xanh tươi gần Frankfurt am Main, miền trung nước Đức.
Trời vừa khuất bóng, đường phố bắt đầu lên đèn, quán Intermezzo tọa lạc trên con đường sang trọng và đẹp nhất của thành Ất Lăng, ngay góc Peachtree và đường số 10. Đây là một quán cafe của người ý , phong cách bài trí đậm chất thành Rome, những bức tranh hay pho tượng giả cổ theo phong cách nghệ thuật phục hưng, những cái bàn ăn nho nhỏ, mỗi bàn có một lọ hoa và chao đèn màu, ánh sáng dìu dịu vừa đủ để thực khách thấy mà ăn.
Suốt đêm, Sarah bồn chồn, trăn trở như người mất ngủ kinh niên. Nàng hết đi ra đi vào trong căn phòng chật hẹp, ném cái bóng nặng nề thô kệch hắt từ ngọn đèn ngủ đỏ lừ lên vách tường. Những lúc nàng trăn trở, hắn như gã đàn ông không quen đi biển, lật lìa, say sóng. Đứng nhìn ra ngoài khung cửa sổ chán, Sarah lại quay vào nằm xuống trũng mặt nệm, mắt thao láo ngó lên trần nhà. Tuân thiếp đi lúc nào không hay. Rồi đang lúc ngủ say, Tuân giật bắn mình vì Sarah vồ lấy hắn, lắc hung hăng như người ta giũ món đồ ra khỏi túi áo tên ăn trộm.
Thời giữa thập niên 80, gia đình chúng tôi đến Đức được vài năm, tạp chí Độc Lập và Măng Non (sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ) là những món ăn tinh thần quý giá. Học tiếng Đức thật vất vả, trầy vi, tróc vảy. Bởi thế, chúng tôi thèm thuồng món ăn chữ nghĩa Việt ngon ngọt, vừa quý, vừa hiếm này. Nhận được tờ báo tiếng Việt, chúng tôi đọc từ trang đầu đến trang cuối, không bỏ sót mục nào. Đọc xong, chuyền tay qua anh chị em khác.
Chuyện Viễn Mơ Thời Chiến gồm nhiều dật sự. Dật Sự (軼事)là việc xẩy ra không còn tìm biết được nữa. Đó là những câu chuyện xoay quanh Đại Học New Hardy xuất hiện như một huyền thoại tại Nam Thường.
Trời mù sương. Cái lạnh buổi sáng mọc vẩy trên da. Người đàn ông trung niên ngập ngừng trước cánh cửa gỗ to bản khép hờ. Gió vỗ vào tường đá, dội ngược lại thân thể chàng, làm bay phất phơ hai vạt áo choàng mùa thu và đập phành phạch vào hai ống chân chàng. Chùi chân trên tấm thảm nhỏ theo thói quen xong, chàng chậm rãi bước vào tiền sảnh toà dinh thự. Ở đây không khí như keo đặc lại. Cái mùi ẩm mốc lạ lẫm xộc vào mũi chàng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.