Hôm nay,  

Chùa Của Tôi...

1/23/202216:21:00(View: 2340)

Copy of VB-2014-F

 

Thật ra đúng chùa cũng không phải là của một mình tôi, chùa của thầy trụ trì, của tất cả đàn na tín thí, phật tử chung công góp sức cùng các quý thầy xây lên ngôi đại hùng bửu điện thờ cúng tam bảo, hoằng dương phật pháp.

 

Nhưng tôi là một phật tử quy y tại chùa nên tôi mau miệng nhận đó là chùa của tôi. Tôi năng lui tới đó lắm từ lúc tôi còn nhỏ tuổi, ngôi chùa đó ở Việt Nam, một ngôi chùa khá uy nghi.

 

Các em tôi cũng theo tôi năng đi lên chùa, hay là tôi theo em tôi thì đúng hơn… các em lên chùa nghe pháp, mà có ngày tán gẫu nhiều hơn lễ phật, thầy bảo hư thân là vậy.

 

Phần đông là lũ con gái rủ nhau đi, còn thằng em trai duy nhất trong nhà tôi thì nó có tơ màng chi tới chùa đâu.

 

Nó đi học, lớn lên đi lính. Lúc nào nó cũng viện cớ canh, gác, ứng chiến để khỏi bị tụi tôi rủ lên chùa, dù chùa rất gần nhà, nhà ở Tân Sơn Nhất, chùa ở Phú Nhuận…

 

Sau 30-04-1975, nó rời quân đội VN cộng hòa, phải đối diện tù đầy với cộng sản, nghe nạt nộ chửi mắng một thời gian dài… trở về nhà, không có việc gì làm, đi ra đi vào nhìn nhau riết cũng chán nản, nó nói dòm hoài bố, mẹ, anh, chị, em riết rồi cũng như dòm cái bàn, cái ghế… cha tôi im lặng, thông cảm thở dài.

 

Mẹ tôi thì cằn nhằn nói như vậy là vô hậu.

 

Nó cũng không trả lời, lặng lẽ đi lên chùa của tôi… chắc nó lên đó ăn vạ ! Nó cũng lém lỉnh tán chuyện với mấy chú điệu, rồi lấn lá làm quen với sư chú Khoan Độ, sư bác Khoan Hòa… họ cũng cảm thương thằng thất cơ lỡ vận…

 

Ngày ngày sáng chiều nó bổ củi, cắt xén lá cây vườn chùa, kéo nước giếng lên đổ đầy các chum, lu, vại… lau rửa cầu thang lối đi ra vô… chiều chiều nó lại rời Phú Nhuận đi bộ về nhà. Bác Khoan Hòa có cho nó vé xe bus, nhưng nó từ chối : bác giữ để bác dùng !

 

Phước quen đi bộ, quen chân rồi ! Trước khi rời chùa nó được ăn một bụng bobo nấu chín mềm, nó sợ về nhà, mẹ không có đủ cho nó bát cơm tối mẹ lại thở dài…

 

Nó cũng làm được bài thơ : "đêm nghe mẹ thở dài" mà lâu quá, ai cũng quên rồi…

 

Lúc nào nó cũng tìm được lý giải khá hợp tình cho những éo le của nó.

 

Có lần nó nói lúc sắp xếp lại thư viện của chùa, vì sắp bị kiểm kê văn hóa… vô tình nó đọc được một cuốn kinh in chữ lớn, có lẽ dành cho người già hay những người không có kính mắt, cuốn sách có tựa là phát bồ đề tâm của thầy Trí Thủ. Nó đọc thử thấy hay nên hay cầm ra gốc cây đọc tiếp, đọc tiếp… vậy mà sư bác khuyên nó quy y, nó từ chối, nó nói nó đã tự quy y một mình nó trước tượng phật Bổn Sư rồi…

 

Có một ngày, bà bếp của chùa đưa cho nó một bát bobo ăn trước khi ra về, luôn tiện bà nhắn nhủ :

 

- Sau mày không chịu quy y, ăn cơm chùa mòn cả chén mà không quy y là dại lắm đó con ơi !

- Con chỉ quy y khi nào sư bác để cho con tự đặt pháp danh cho con…

- Này, dở hơi lắm, khi quy y thì bổn sư truyền giới đặt pháp danh cho, chớ mày đòi hỏi pháp danh theo ý mày là vô duyên… mà con ơi, mày thích pháp danh là gì ?

- Thích thịt chó !

 

Bà bếp giật nẩy mình, lùi lại :

 

            - Ý, trời phật ơi, coi chừng miệng lưỡi, đồ khùng, thầy trụ trì mà nghe mầy nói vầy, là mày văng ra xa con ơi !

 

            - Không, thầy từ bi mà.

            - Từ bi ! Nhưng mà thầy nào chịu được cái pháp danh phàm tục quái gở… điên vừa thôi…

 

            - Phật tổ họ Thích, mình là con phật, mình thích cái gì thì mình nói cái đó… chứ chết ai đâu.

            - Mày điên quá rồi… thôi ăn lẹ lẹ đi.

            - Con không có điên mà, vì con có một con chó, bị họ lén ăn cắp, giết nó, treo thịt nó lên bán ở cửa hàng bách hóa hợp tác xã dân phố "thâm giao"… con biết rõ, đó là chó của con. Giờ nó không còn là một con nữa. Nó chỉ còn là những miếng thịt thui treo toòng teng… và con thích thịt chó.

 

            - Thôi ăn đi rồi về… mà ngắm thịt chó, đồ vớ vẩn, lẩn thẩn…

 

            Phước, tên nó là Phước, nó biết bà bếp không thể hiểu tâm sự của nó, nó thở dài, uống cạn bát nước mưa trong mát, rồi ra về…

 

Hôm sau đó, Phước trở lại thư viện chùa, cẩn thận bọc kỹ những kinh sách quý mang cất dấu sau phòng hậu liêu.

 

Đến quá trưa, nó lại gặp bà bếp, mỉm cười, và bà trao cho nó một tô đồ ăn đầy, bà còn đủng đỉnh mời Phước :

 

- Này, "Thích thịt chó" phần ăn của mày đây ! Nó vừa đưa tay đỡ chén cơm từ tay bà, cám ơn, thì bà lại hỏi nó thêm :

 

- Hôm nay, này, mày là Thích thịt gì ?

- "Thích thịt gà" ! Phước đáp rõ ràng, không ngần ngại. Người cho cơm như muốn giựt lại cái tô trên tay nó, bà tá hỏa :

- Hôm qua là "Thích thịt chó" nay mày là "Thích thịt gà" ngày mai, chắc mày sẽ là "Thích thịt người" ?

… Không, không, chỉ "Thích thịt gà" và thôi … nó bệu bạo bào chữa !

 

- A Di Đà Phật, ở cửa bụt, mà nó nói lung tung như vầy, con ơi, con phải sám hối 1000 cây nhang không đủ… tội nghiệp quá.

 

… Để tao đi mời sư chú Khoan Độ đến chứng cho mày sám hối, mà ăn đi, ăn cho xong bữa đi !

……………….

Phước đã kể với sư bác và với bà thủ quỹ nghe nguyên do "Thích thịt gà" ra sao ?

 

… Hồi đó, hồi trước khi việt cộng tràn vô, nó là lính truyền tin đi theo sư đoàn tác chiến và đóng ở Quảng Trị, Đông Hà. Rồi nó đã bị bắt tại trận cùng một số anh em…

 

Ngày 30-04-1971 nó cùng một số đồng đội tập trung cải huấn trong rừng sâu, thật sâu trên đất Ai-Lao. Trong rừng đại ngàn bát ngát, bát ngát… toàn cây và lá cây… hổ báo có lẽ sợ súng đạn đã bỏ đi đâu hết, rừng suối hoàn toàn yên tĩnh… một con suối chẩy xuyên qua rừng, nước róc rách trong veo, sỏi đá vụn như được rửa sạch lay động vài cánh rong tươi mát…

 

Mỗi khi đi lao động vất vả "chém tre đẵn gỗ trên ngàn" về… mệt nhoài, bụng đói meo, Phước cùng đồng bạn ngừng bên nước mát thở khoảng 15 phút, nhìn vu vơ trước khi về nơi tập trung.

 

Rồi có một hôm nọ, đi ngang suối và Phước vô tình thấy, trời ơi, một khúc xương cánh gà… ai ăn xong vứt dưới suối, nó nằm lay động nhẹ theo sức nước chẩy lăn tăn !

 

Trên đường về trại, đồng bọn nói chuyện… mà Phước có nghe đâu, nó tơ tưởng mãi miếng xương cánh gà dưới nước ! Nó thèm vì ăn uống thiếu thốn đói khổ đã lâu, quên phứt đi là xong, Phước tự nhủ lòng, nhưng…

« tình lỡ đã quên đi,

nhưng rồi bỗng lại về »

                                    T.C.S

 

Sau cùng Phước tự một mình quay lại bờ suối, anh lội bùm xuống nước, vớt lẹ miếng xương gà lên, đưa lên miệng rít rít chút nước không… mà cứ tưởng là mùi thịt gà, thơm và ngon lạ lùng… bỗng có tiếng quát tháo sau lưng :

 

Anh kia, làm gì ờ đây ? Dơ tay lên !

Phước theo phản xạ dơ tay qua khỏi đầu, bàn tay vẫn không buông rơi cái vật khắc khổ.

 

Người cán bộ quản giáo lại gần, giựt lấy từ tay anh, miệng hét :

- Về trại, mau, lúc nào cũng chỉ nghỉ đến ăn, toàn là quân chết đói…

 

Phước tủi thân… nghĩ mình sắp chết đói thiệt… anh lầm lũi trở về trại giam, lủi thủi như một cái xác vô hồn biết đi…

 

Sư bác, sư chú, bà bếp nghe xong bài sám hối của Phước, họ bần thần… như vừa bị tra tấn tâm linh !

Xin lỗi…

Nếu cứ kể chuyện buồn thì buồn hoài mà chùa của tôi cũng có nhiều chuyện vui…

… Cái hôm đấy năm nào cũng là dịp lễ phật đản, chùa Bửu Đà vui lắm, ăn mừng lễ lớn, đọc kinh cũng to giọng vang vang… vang vang như chùa Xá Lợi tụng kinh Dược Sư !

 

Các em Oanh Vũ múa và hát thích chí hơn ăn, dù là ngày đó có nhiều bánh kẹo…

 

Tâm An, Thúy Hiền, Diệu Tâm, Chúc Nhã, Chúc Hạ, Chúc Toàn, Chúc Diệu… tất cả trong ban vũ tí hon sửa soạn màn vũ cúng dường phật ra đời. Các em súng sính trong quần, giầy, áo dài mới do cô Quỳnh Hạnh may tặng…

 

Các em đã tập dượt nhiều lần, hồi hộp chờ sắp ra trình diễn.

 

Bất chợt bé Tâm An lúng túng, loay hoay và hét lên, vì bé bị đứt dây thung quần !

 

Lạy phật cứu con!

 

A, thì ra bé này mò nghịch, kéo ra kéo vô cái lưng quần mới, bất chợt nó sút ra, cái quần tụt xuống, may quá ai cứu với, nó túm được hai bên quần, cả hai bên áo chạy ra khỏi hàng nước mắt lưng chòng, sợ hãi, chới với.

Cô Quỳnh Chi, đứng ngay bên, hiểu ý, vội đón ngay, nắm tay em kéo vô bếp :

… Đừng sợ, vô đây, cô sửa cho, sửa quần cho… chỉ 10 phút là may xong.

 

Tâm An sợ hụt màn múa, thút thít khóc. Cô Quỳnh Chi vội trở ra sân khấu, nói nhỏ với Phước, Phước có chút tài lẻ, đang dạo đàn… chờ… ngay, Phước cứ đàn và tự biên tự diễn đi nhe… »

 

Phước hiểu ý, lỗi kỹ thuật, cười thông cảm, bình tĩnh dạo vài nốt đàn « tủ » vừa đi qua đi lại hát nhẹ nhẹ, cũng hay với cái giọng đặc mùi café hát :

 

« … Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối ! » chỉ có một câu giáo đầu bài trăng mờ bên suối mà nó ca đi ca lại, hát tới hát lui, 5,7 lần. Thầy Bổn Đạt, thầy Trí Kính, chú Khoan Độ, rồi bà bếp ngẩn ngơ ngó nhau, rồi cùng cúi xuống cúi xuống cười mím chi…

 

Gớm cái thằng "Thích thịt gà" cũng văn nghệ ! Bất chợt có ai đó, hình như là sư bác Khoan Hòa thì phải, lên tiếng nhận xét :

 

- Ôi, nếu mà tác giả Lê Mộng Nguyên mà nghe được nó hát bài "trăng mờ bên suối" của ổng lúc này, thì ổng phải dơ cả hai tay lên cao qua đầu mà thở ra : ô hô, ai tai !

 

Rồi cái quần của bé Tâm An cũng được may lại, màn múa tiếp theo ngoạn mục, nhiều màu sắc, nhiều ý nghĩa rất cảm động :

 

« … Đã bao đời đã hằng thiên niên kỷ

Đạo pháp ngài, gieo hạt giống từ bi

Trượng pháp ngài, tỏa hào quang hỷ xả

Lưu dấu muôn đời, muôn kiếp đức từ tôn. »

 

Múa xong, các Oanh Vũ đứng vây quanh tượng phật, thầy trụ trì nhìn các em trìu mến :

 

- Các con thấy phật chỉ một ngón tay xuống khay trái cây không ? Rồi còn một tay chỉ lên cao không?

 

- Bạch thầy, tụi con thấy…

- Thấy gì nào..?

- Thì người ta bầy trái cây lễ cúng phật…

- Cúng xong rồi, phật biểu các con bê đĩa này (chỉ xuống) rồi mang lên phòng trên lầu (chỉ lên) phật cho các con mang lên đó chia nhau ăn. Coi chừng chạy lẹ đi mau sút áo sút quần nhe…

 

Mọi đứa cười vui mừng hớn hở, chồm tới!

 

X

X          X

 

Đó là chùa của tôi ngày xưa.

Chùa của tôi, bây giờ, ở đây, là không ở Việt Nam, vì tôi đã đi xa quê nhà 39 năm rồi.

 

Ở đây tôi cũng có chùa. Chùa của tôi ở đây cũng trang nghiêm, cũng thân mến và đông vui không kém chùa của tôi khi xưa.

 

Chùa có thầy viện chủ, thầy trụ trì, nhiều sư thầy khác hay đăng đàn giảng pháp, có sư cô giảng kinh kệ và đánh trống rất oai nghi!

 

Đặc biệt có ban ẩm thực làm bếp rất ngon. Cũng có một bác vừa làm quản lý vừa là thủ quỹ trông coi thu vén mọi việc trong ngoài chùa… nhất là chỉ huy việc nấu nướng, bà ấy thường rất hiền và đôi khi cũng rất dữ… đó là vị hộ pháp thứ hai của chùa. Chùa còn rất may có chị Diệu Thảo ở đâu đến từ lâu, đến ở chùa, coi như phụ tá của bác thủ quỹ. Chị Diệu Thảo, người như tên, rất từ tốn và dễ thương bên cạnh bà chef của chị. Cũng có nhiều chị khác đến làm công quả mà tôi không nhớ tên rõ lắm.

 

Chị Diệu Thảo hay ở cạnh bác bếp, khi bác bếp có chuyện không vui với ai đó, lập tức chị ra tay dập lửa liền:

 

- Vâng, dạ, dạ… bác, hay anh chị hoan hỉ cho, bác bếp có khó chút vậy là lo cho chùa việc gì cũng chu đáo… nếu không có bác, có lúc mọi sự sẽ rối beng…

 

Một ngày kia có một bà mang đồ làm bếp (không biết là cũ hay mới) nào nồi, niêu, soong, chảo, đủ cỡ đến biếu chùa, bác bếp khoác tay:

 

- Này, đây không phải là nhà kho chứa đồ đâu nha, mang đi chỗ khác, cám ơn.

 

Chị Diệu Thảo vội chạy ra bảo họ tạm mang về cất đi, đợi cho một tuần lễ, chị kiểm điểm lại đồ trong nhà bếp đã.

 

Rồi sau đó một hồi lối 1, 2 giờ, một phật tử quen, anh Thành, lối 30 tuổi, anh cũng lui tới chùa thường, anh làm việc cho một hãng cung cấp các loại hộp plastique để đựng đồ ăn làm sẵn, kiểu mua mang đi, food to go, khá tiện lợi.

 

Anh sịch đậu xe, mở cửa, mang vô chùa, 5, 6 lố hộp nhựa để chuẩn bị cho những ngày lễ sắp tới.

 

Bác bếp thấy vội chạy ra:

- Nhà chú bộ không có chỗ chứa đồ sao?

- Có chỗ chứ, mà đây là cháu biếu chùa khi cần dùng làm food to go.

 

Anh cứ đi thẳng vô bếp, gác lên cao, rồi trở ra xe, mang vô thêm lần nữa, lần thứ hai, bác không hỏi mà chỉ nhìn lườm lườm.

 

- Vâng, còn đây là ly, muỗng, nĩa… vì mình không phải là dân ăn bốc, cũng không phải là "rệp!"

 

Thầy dư biết mọi việc, cũng phải để cho bà kỷ luật thu xếp công việc, vì chùa ít người, kham không hết việc… kiếm được người quán xuyến như bà cũng không phải dễ.

 

Hoa, bánh, chè, xôi, trái cây trên các bàn thờ, bà lo mua bán trưng bầy. Dĩ nhiên do tiền thầy đưa.

 

Ngày lễ vía, tết nhất, cúng quẩy, ẩm thực, một tay bà lo mua bán, chỉ huy người khác làm việc y luật nhà binh, không thiếu không thừa, hay có thừa là thừa chút chút…

 

Nấu chè thì bà tự nấu, bà chuyên lượm chuối chín ở các bàn cao kệ thấp xuống, bà nấu chè chuối bột báng, nước dừa… bà vẫn tuyên bố: bác nấu chè là rẻ nhất thế giới!

 

Mua một tí bột báng và mấy hộp đường, 3 hộp dừa, là cúng đủ nơi, cả làng ăn không hết… ngon ơi là ngon, mà không hao tốn tiền…

 

Hoa thì thường phật tử mang lại cúng rất nhiều. Còn mùa nào khan hiếm hoa, thì bà bảo cứ áp dụng kiểu cắm hoa Nhật Bản là ra chợ mua vài ôm hoa về cắm tràn lan ra nhiều bình. Nếu có ai muốn hỏi thầy về tang sự, mà lỡ thầy đi phật sự vắng, bà bếp góp ý ngay, làm cách nào… hỏa tang, thổ tang, thủy tang… cách nào rẻ nhất là hay nhất, đúng nhât. Rồi 49 ngày và thất tuần, mỗi tuần nhớ về nhà cúng, 100 ngày nhớ về chùa cúng, cúng xả tang luôn, xong ngay!

 

Bạn của Thành là Tiến, kém Thành 10 tuổi, theo Thành đi chùa công quả lau bàn ghế, kê bàn, dọn đồ đạc nặng nề.

 

Bên cạnh Tiến, có Tú, pháp danh Quảng Đức. Cả hai đứa Tiến và Tú biết ý bà thủ quỹ khó chịu, chúng hay kiếm cớ vặt chọc ghẹo bà. Một hôm Quảng Đức vừa thắp 3 cây nhanh cắm vô lư hương ngoài cửa lớn, Tú tính lùi lại lạy phật mẫu Quan Âm, thì bà ở đâu tới, lớn tiếng:

 

- Này Quảng Đức, chỉ thắp một cây nhang thôi…

- Không, cháu thắp ba cây là Giới, Định, Tuệ…

- Giới Định Tuệ… thì mang về nhà mà làm, ở đây khói um lên, đông người ai chịu nổi… đúng lúc đó, bên trong, ban văn nghệ đang tập dượt, cô Quỳnh Hạnh vừa dạo đàn vừa hát kiểu hát quan họ Bắc Ninh… hơi véo von:

 

"… Anh hùng, mà sánh với thuyền quyên…" Tiến cười cười hỏi Tú, anh hùng thì "moi" biết… còn "thuyền quyên" là cái gì nhỉ…

 

Tú đang đứng giữa tiến và bà thủ quỹ, Tú cố xích người gần bên bà hơn một chút xíu, rồi mới trả lời Tiến cao một chút nữa…

 

… Thuyền quyên là gì ? Là cái con khỉ già khó chịu !

Bà nhướng cặp lông mày vẽ rất đậm nhìn hai đứa oắt con, theo ý bà, rồi ngoe nguẩy đi ra ngoài…

 

Khi nào tới giờ ăn, bà nhắc nhở mỗi đứa ăn nhiều thì cũng hai đĩa thôi nhe !

 

Nhưng bọn nhỏ cứ nháy mắt nhau, lên lấy lần thứ ba, dù lần này xin rất ít… kẻo bị bà rầy, ăn hung tợn ăn cho sập chùa !

 

Có khi thầy đứng đó, nói nói cười cười với phật tử chúc ăn no đi, ăn ngon miệng !

 

Bà cũng nể thầy, chẳng nói năng chi, chỉ nhìn mấy đứa ăn nhiều… lườm lườm…

 

Hết ăn cơm thì ăn chè, mỗi người chỉ một ly thôi, mà mấy đứa rắn mắt, hiên ngang đi qua đi lại, mỗi đứa lấy hai ly chè, mỗi tay một ly… chúng còn hô hoán lên :

 

- Oh, chè chuối ngon hết sẩy !

- Yêu tinh…

 

Chú Khoan Độ chắp tay sau lưng, cười thật tươi, "ô hôm nay, chùa mình có nhiều vị khách lạ đến viếng quá nhỉ… có anh hùng, có thuyền quyên… có khỉ già và có cả yêu tinh nữa !"

 

Kỳ tết khoảng hai năm trước, trước khi xẩy ra dịch bệnh covid 19 chùa làm lễ và ăn uống thật rôm rả… bàn nào, bàn nấy, ngoài các món thường lệ, có thêm ba món nấu :    Canh măng khô hầm, canh miến tàu hũ nấm mèo, Cary thập cẩm đủ loại rau.

                         

Ngày này, nhiều việc bận rộn, không ai canh chừng các mâm cỗ bầy sẵn, mấy cô bé chú bé con 3, 4 tuổi theo cha mẹ đi lễ chùa , thấy cỗ bàn nhiều và đẹp quá, chúng rủ nhau pha chế, chúng táy máy lấy muỗng để sẵn trên bàn, chúng múc nước canh măng đổ qua canh miến… múc nước cary đổ qua các đĩa mì xào dòn… chúng múc nước ở những tô quá nhiều chia cho những tô cạn nươc, khô nước… chúng đang hào hứng lắm… vô phúc cho chúng, bà thủ quỹ chợt phát giác ra , bà nhẩy dựng ngược lên, rồi run rẩy, rồi hét tê tê :

 

- Úy trời đất ơi ! Con ai cháu ai mà không coi chừng, chúng phá tan nát hết cỗ bàn rồi… mấy đứa nhỏ sợ quá, chạy tuốt vô núp trong các nhà vệ sinh, khóa trái lại cửa bên trong.

 

Bà làm dữ, la lối hơi to tiếng, phụ huynh xám xanh mặt, xin lỗi…

Thầy thấy không ổn, vội tươi cười xuống chữa cháy:

- A Di Đà Phật!

Không có sao đâu không thích, (Không Thích là pháp danh của bà) bình tĩnh đi, nghe thầy nói này: chúng ta cứ yên tâm vì
Chúng ta làm cỗ chay

Chúng ta cúng cỗ chay

 và        Chúng ta ăn cỗ chay

Thì món nào cũng gần giông giống như món khác…

Trộn ăn chung cũng ngon, có sao đâu, chấp chi con nít nhỏ mà… nó không phá là nó không khỏe ! … nhưng rồi giông bão nào cũng qua đi… qua một thời gian sám hối, mọi người lại ngồi lại cùng nhau, chuyện trò cởi mở, vui vẻ như không hề, chưa hề có chuyện gì đã xẩy ra.

 

Chùa của tôi là vậy… là thế…

 

Bác bếp vẫn ở đó, vẫn thu vén vẫn răn đe, chu toàn… và mọi việc vẫn bình thường !

 

Bẵng đi bao nhiêu tháng dịch bệnh covid 19 nguy hiểm lan tràn, tụi tôi không được về chùa, nhớ phật, nhớ thầy, nhớ cảnh, nhớ người, nhớ bạn đạo… và cũng nhớ luôn bác bếp khó chịu.

 

 Năm nay, tháng tư vừa rồi, ngày phật đản sanh, chùa chúng tôi cũng như bao chùa khác, được phép mở cửa làm lễ kỷ niệm ngày phật ra đời. Lễ phật, rồi lễ tắm phật, tưng bừng diễn ra rất vui vẻ và cảm động… tuy là còn giản cách xã hội.

 

Theo lệnh nhà nước, mỗi người đi lễ phật chỉ nên làm một vòng vào cửa trước ra cửa sau rồi về, không vòng lại đi lung tung trong chùa như trước khi có dịch…

 

Chúng tôi lên lối ngoài, vô chánh điện, lễ phật, dự lễ tắm phật rồi ra về cửa sau luôn, thì làm sao trở lại đằng trước lấy giầy dép như mọi khi ?

 

Nhưng rồi ban tổ chức và bác bếp cũng nghĩ được cách giải quyết ổn và đẹp mắt !

 

Thoạt đầu mới vô chùa, chúng tôi, mỗi người đều được phát thuốc sát trùng rửa tay, xong nhận được một đôi bao giầy ở chân bằng nylon, khỏi phải tháo dép giầy nữa, cứ thế đi lẹp xẹp vô bàn phật, lễ lạy, đảnh lễ xong, chào, ra cửa sau, xuống thang cũng lẹp xẹp với giầy, dép bao bao nylon rồi ra về luôn.

 

Bác bếp ngồi ngay cửa sau chùa, bác bếp ngồi đó đặng phát tặng cho mỗi người một hộp đồ ăn chay của chùa, mang về nhà ăn… khỏi lấy 2, 3 lần mất công qua lại hấm hứ nhau !

 

… Cửa vô chánh điện lại không bị tồn ứ đọng một lố giầy dép, chồng chất lên nhau, như mọi ngày trước, coi lịch sự và trang nghiêm hơn !

 

Chúng tôi cũng được phát mỗi người một chai nước suối uống, thêm một chai nước suối để tự mình rót ra làm lễ tắm phật như gột rửa lòng mình hay suy nghĩ vẩn vơ, lạc ra ngoài chánh niệm… cảnh quang không lùm sùm múc lên múc xuống như mọi năm trước đây…

 

A Di Đà Phật

« Trang nghiêm đài sen ngự tòa

Đại hùng tù phụ Thích Ca…

…………………………………………..»

 

Hôm sau buổi lễ, chúng tôi rủ nhau trở lại chùa, tính phụ thu dẹp… bàn ghế, nồi soong, chén bát v.v…

 

Vừa đặt chân vô cổng hẹp, chúng tôi đã nghe chị Diệu Thảo khoe:

- Nè, bác bếp thủ quỹ được giấy khen của mairie đấy… nhờ bác khéo tổ chức đại lễ đản sinh đức phật hôm rồi. Đại lễ gọn gàng mà không kém phần trang nghiêm, lại đúng tiêu chuẩn phòng ngừa đại dịch covid.

 

- Xạo, xạo, ba xạo… vừa thôi nhe, tụi này đoán ra rồi. Giấy khen là mairie họ gửi khen thầy, mà thầy tẩy tên thầy đi, ghi tên Không Thích vô, cùng họ nguyễn cả… dễ ợt hà!

Chùa của tôi… vui là thế.

A Di Đà Phật
Mùa Phật Đản 2021

Chúc Thanh

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Sàigòn cũng như Phan Rang không có 4 mùa, nhất là mùa Thu. Nhưng Sàigòn cũng như Phan Rang đều có những đêm trăng Thu mờ ảo đẹp và buồn giống như mắt của em.
Cuộc điện thoại đã dứt mà Tử Linh vẫn còn đứng tần ngần một lúc rồi mới quay trở ra hiên, ngồi xuống cái ghế gỗ mà khi nãy cô đang ngồi, vừa đọc sách, vừa nhâm nhi tách trà nóng và những chiếc bánh madeleine thơm mùi vanilla trước khi tiếng chuông điện thoại từ trong phòng khách buộc cô phải chạy vào...
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng, họ còn kháo nhau là mật thiết hơn cả tam tinh, tam điểm, tam tụ, tam anh… Chẳng cần kết nghĩa đào viên nhưng chúng sống chết có nhau, chưa bao giờ rời nhau một li hay một khoảnh khắc nào. Thỉnh thoảng cũng có xung đột giữa ba đứa nhưng rồi cũng trôi qua êm thấm. Cả ba nương tựa nhau, hỗ trợ nhau, sinh hoạt qua lại với nhau. Thật tình mà nói thì chỉ có hai mới đúng, vì thằng Tưởng vốn là đệ tử ruột của thằng Tâm mà ra, tuy nhiên vẫn có sự khác biệt nào đó nên thiên hạ cho là ba, nói cho cùng thì là bộ bà cũng đúng hay khắt khe bảo bài trùng cũng không sai.
Lật bật đã tới tháng 9 mùa tựu trường. Lòng nao nao nhớ thời học sinh nhỏ nhít đất thần kinh xưa. Ở Huế, mùa tựu trường cũng tưng bừng rộn rịp như bất cứ nơi nào khác trên đất quê nhà. Cũng bâng khuâng luyến tiếc những ngày hè tươi đẹp chóng qua. Cũng nao nức trở lại trường lớp gặp bạn thầy cũ, mới. Có khác chăng mặt mũi mấy cô mấy cậu học trò đều phảng phất một vẻ nghiêm trọng. Làm như mình đã trưởng thành tới nơi!
Cách đây 5 năm ông bà này có cho một cậu sinh viên Việt nam trẻ tuổi, đáng tuổi con cháu xin mướn phòng ở trọ học tại nhà ông bà cho đến đầu năm tới 2025, cậu sinh viên này sẽ tốt nghiệp đại học 4 năm với văn bằng cử nhân
Cũng như các trại tỵ nạn khác, ở Thailand cũng có một khu “nhà tù” dành cho những người tỵ nạn không chấp hành quy định của Bộ Nội Vụ Thái hay của Cao Ủy tỵ nạn. Thời hạn ở tù tùy theo mức độ phạm quy, có khi từ một vài ngày cho tới một hai tuần. “Tù nhân” cũng đủ loại, nhẹ thì có những người mua lén đồ ngoài hàng rào, thức quá giờ giới nghiêm, quên làm vệ sinh khu nhà được phân công, nặng hơn là thành phần đánh lộn, gây mất trật tự trong trại, trộm cắp vặt, trốn ra ngoài trại đi chơi.
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn nhẹ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với gia đình người bạn thân ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm… Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cảchương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước
Nàng tỉ tê với nhỏ bạn về những cuộc “thảo luận” sôi nổi của vợ chồng nàng. Bằng mọi giá, nàng muốn giữ cho đứa con có tuổi thơ tươi đẹp, hạnh phúc. Bao năm qua, đã có lúc nàng buồn rầu nghĩ, mình như con gà đẻ trứng vàng. Chỉ được việc, nhờ biết đẻ trứng vàng. Nàng không dám đề cập đến chuyện tiền bạc, sợ làm chồng buồn, cho rằng nàng cậy sức mạnh kim tiền lấn áp chồng. Nàng rất may mắn trong cuộc sống ngoài xã hội. Chưa ra trường, nàng đã nhận được hợp đồng làm việc với một trong những hãng hàng đầu của nước Đức. Ngược lại, chồng nàng quá lận đận. Cả năm trời, anh chạy đôn, chạy đáo tìm việc, mà vẫn phải nằm nhà. Nàng tự nhủ, tài lộc trời ban, gia đình sống thoải mái, chứ tính toán chi mà mất hòa khí vợ chồng. Tháng tháng, nàng thanh toán nợ to, nợ nhỏ, hàng hàng lớp lớp chi phí tất yếu của xã hội văn minh.
Xíu tiếp tục cuộc hành trình bất tận của mình, đừng tưởng Xíu chơi hoang hay đi rông, phiêu bạt giang hồ vô tích sự. Chính sự lang bạt kỳ hồ của Xíu và anh em nhà Xíu đã đem lại mưa thuận gió hòa, đem lại nguồn sống cho loài người và vạn vật muôn loài. Lần này Xíu quay về lại góc Đông Nam Á châu, nơi có dòng sông thiêng liêng chảy qua.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.