Hôm nay,  

Thị Trường Và Dân Chủ

7/1/200600:00:00(View: 3363)

Với mọi thành tích kinh tế, Trung Quốc đang chứng minh dân chủ là cần thiết…

Kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc, hôm 30 vừa qua, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã đọc một bài diễn văn kêu gọi diệt trừ tham nhũng. Nghe cứ hùng hồn như Hà Nội! Hơn cả Hà Nội, trước đó một ngày, ba đảng viên cao cấp đã mất ghế đại biểu Quốc hội, trong đó có một Phó Đô Đốc, vì tội tham nhũng. Đã hùng hồn lại còn cương quyết nữa.

Từ Tháng Ba vừa qua, lãnh đạo Bắc Kinh ban hành Kế hoạch Năm năm 2006-2010 với những chương trình cải cách cơ chế được Hội nghị Trung ương đảng đề ra từ Tháng 10 năm ngoái. Một trọng tâm cải cách chính là cơ chế đảng, lồng bên dưới là nỗ lực diệt trừ tham nhũng đang làm đảng mất uy tín và gây làn sóng bất mãn trong quần chúng.

Cho nên, phải tin rằng Hồ Cẩm Đào đã nói là làm… không như người Hà Nội.

Từ bên ngoài, thế giới ưa có cái nhìn trên tổng thể - và nông cạn - về quốc gia có một tỷ ba trăm triệu dân và đà tăng trưởng kinh tế tới 9-10% một năm.

Lý luận theo đường thẳng thì cứ đà này thì chỉ hai kế hoạch năm năm nữa là kinh tế Trung Quốc sẽ vượt Nhật Bản, đến năm 2030 sẽ hơn toàn khối Âu châu. Nếu lại đạt tốc độ tăng trưởng chừng 12% trong khi các nước công nghiệp hoá giỏi lắm thì chỉ cầm cự được với tốc độ 5% thì 30 năm nữa, kinh tế Trung Quốc còn lớn hơn tổng số sản xuất Mỹ-Nhật. Đứng đầu thế giới!

Trước một thế lực như vậy cho một thị trường có triển vọng như thế, các doanh nghiệp đầu tư của quốc tế đều sẵn lòng bỏ qua những chứng tật lặt vặt của chế độ. Microsoft, Google hay Yahoo!, v.v… đều lý luận như thế cả.

Thành tích ấy khiến nhiều người phân vân tự hỏi: một chế độ độc đảng theo kinh tế thị trường có thể tạo ra phép lạ kinh tế" Người ta phân vân như đã từng phân vân như vậy nửa thế kỷ trước về phép lạ công nghiệp hoá của Liên Xô. Dường như chế độ độc tài có khả năng sung dụng tài nguyên dù độc đoán thì cũng hiệu quả hơn sự mù quáng của thị trường.

Ai đó phân vân chứ giới lãnh đạo Hà Nội tin chắc như vậy.

Cũng chỉ vì một cái nhìn nông cạn.

Từ hai năm nay, lãnh đạo Bắc Kinh đã nhiều lần báo động là kinh tế tăng trưởng quá mạnh nên phải có biện pháp hạ nhiệt. Ngần ấy biện pháp đều chẳng công hiệu cho nên năm ngoái, đầu tư cố định cho sản xuất đã lên tới 45% tổng sản lượng nội địa GDP, và năm nay sẽ còn mấp mé 50%. Xưa kia, khi Nhật Bản rồi Đại Hàn hay Đài Loan thắt lưng buộc bụng để dồn sức cho sản xuất thì cũng chưa hề đạt nổi mức đầu tư cố định là 40% GDP, vậy mà cũng thành rồng cọp.

Giờ đây, Trung Quốc đầu tư còn lớn hơn thế thì chuyện qua mặt Nhật Bản là tất yếu!

Thực ra, với trình độ kỹ thuật hiện nay thì mức đầu tư ấy phải dẫn tới kết quả tăng trưởng cao hơn 10%, phải từ 12 đến 15%. Thực tế, một số địa phương như thành phố Thiên Tân đã có mức tăng trưởng lên tới 20%. Nhưng để làm gì"

Trong 27 năm qua, cùng với đà tăng trưởng kinh tế rất cao khiến người ta nhớ tới phép lạ Đông Á, thì dị biệt giàu nghèo đã đào sâu gấp bội, ngược hẳn với các nước Đông Á như Nhật Bản, Đại Hàn hay Đài Loan. Mà các xứ này lại không đề cao lý tưởng xã hội chủ nghĩa và phải chấp nhận quy luật dân chủ để có một chế độ chính trị ngày càng cởi mở hơn theo đà tăng trưởng. Nghĩa là họ tăng trưởng có phẩm chất, xã hội có phát triển.

Ngày nay, Trung Quốc đạt mức tăng trưởng cao, nhưng thiếu phẩm chất và gây rất nhiều phí tổn ngầm, loại "ẩn phí" không ai kiểm tra nổi, như nạn ô nhiễm môi sinh hay thái độ vô trách nhiệm về xã hội. Vì vậy, kết quả tăng trưởng ấy đã không được phân bố đồng đều mà cũng sẽ không bền. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và những người cùng ông lên cầm quyền từ năm 2002 đã bắt đầu hiểu ra điều ấy và đang cố gắng cải sửa, thành thật cải sửa, khác hẳn Hà Nội.

Khi ta thấy kết quả tổng hợp là tăng trưởng 10% một năm mà Thiên Tân lại vượt bậc với 20% thì mình phải suy ra là nhiều tỉnh chỉ có mức tăng trưởng 5%, những tỉnh nằm sâu trong lục địa và chưa ra khỏi thế kỷ 19.

Thiên Tân sở dĩ đáng chú ý vì Chủ tịch Ủy ban Nhân dân là Đới Tương Long, đã có một thời làm Thống đốc Ngân hàng Trung ương.

Khi làm Thống đốc, ông nhìn tình hình kinh tế ở tầm vóc quốc gia, nay về lãnh đạo một tỉnh, ông thấy chính quyền trung ương là một… chướng ngại. Khi làm Thống đốc, ông ta muốn mọi địa phương hay doanh nghiệp phải chấp hành chánh sách tiền tệ và tín dụng của trung ương, ngày nay, ông thấy chủ trương mới của chính quyền trung ương gây thiệt hại cho Thiên Tân.

Lãnh đạo Bắc Kinh - những Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo hay Uý Kiện Hành - đều hiểu ra là đường lối phát triển kinh tế do Đặng Tiểu Bình đề xướng và Giang Trạch Dân áp dụng đã đi hết sự vận hành của nó và ngoài lượng thì còn phải chú trọng đến phẩm. Họ chủ động yêu cầu giảm đà tăng trưởng, cải cách cơ chế - từ luật lệ (về đất đai) đến thuế khoá và giáo dục y tế - để nâng đỡ nông thôn và các tỉnh khiếm khai trong lục địa. Nếu không cấp bách tiến hành việc ấy thì xã hội Trung Quốc có thể vỡ đôi, nông dân sẽ nổi loạn.

Đồng thời, họ cũng hiểu là nếu tiếp tục đường lối cũ là dồn tiền từ ngân hàng vào các doanh nghiệp nhà nước để sản xuất tối đa với giá thành tối thiểu hầu bán thật rẻ ra ngoài thì các ngân hàng sẽ sụp đổ dưới núi nợ thối không thể đòi lại từ các doanh nghiệp. Trước khi gặp nguy cơ động loạn xã hội, Trung Quốc có thể lãnh nguy cơ khủng hoảng tài chánh. Hoặc nói theo trình tự hợp lý, khủng hoảng tài chánh sẽ xoá sạch tiền ký thác của dân chúng và dẫn tới động loạn, cả trương chủ ở thành phố tới nông dân ở thôn quê sẽ cùng biểu tình với công nhân bị sa thải từ các doanh nghiệp nhà nước bị phá sản.

Đây là viễn ảnh đang chờ đợi họ sau những hồ hởi tưng bừng của Thế vận hội Bắc Kinh 2008, như một đỉnh cao báo trước sự sụp đổ của hệ thống chính trị hiện hành.

Vì vậy, họ mới vận động cải cách và… đụng vào cái vảy ngược của con rồng, của một bầy rồng.

Việc cải cách ấy xâm phạm vào quyền lợi của các địa phương, của các đảng ủy và cán bộ đã trục lợi và làm giàu nhờ đường lối kinh tế cũ. Chẳng những các tỉnh ngoài duyên hải không ưa gì chủ trương cải cách mà các tỉnh nằm sâu trong lục địa cũng vậy vì đảng viên nơi ấy vẫn có những đặc quyền và đặc lợi vượt khỏi tầm tay người dân. Và nhiều đảng viên địa phương bắt đầu bất mãn với việc cải cách của Hồ Cẩm Đào nên lặng lẽ phá hoại, nhẹ nhất thì cũng ù lỳ không chấp hành những biện pháp giảm đà tăng trưởng.

Từ bên ngoài, vì bị mê hoặc ở tốc độ tăng trưởng cao và viễn ảnh bán cho mỗi người dân Hoa lục một sản phẩm của mình, thế giới không nhìn ra là chính quyền trung ương hiện không kiểm soát được nền kinh tế, mỗi nơi lại tăng trưởng một cách theo những tính toán lợi hại của từng địa phương.

Đâm ra nếu không cải cách thì xã hội vỡ đôi mà tiến hành cải cách thì có khi đảng sẽ vỡ đôi.

Cho đến nay, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào bắt đầu áp dụng bài bản của Mao Trạch Đông trong cuộc Đại Văn Cách: vận động thế lực của quần chúng, kể cả sự bất mãn của nông dân, làm đòn bẩy tấn công ngược vào các đảng viên tham ô. Cũng trong chiều hướng ấy, họ còn tung ra lập luận là kinh tế thị trường và giới đầu tư nước ngoài đã hủ hoá đảng viên cán bộ. Đây cũng một hình thức mị dân, khơi động tinh thần độc lập, hay bài ngoại, của người dân, nhằm gây sức ép vào trong đảng, để cứu đảng.

Những chuyện ấy đáng để cho thế giới nhìn lại Trung Quốc với con mắt thực tế hơn.

Chế độ chính trị, cái "định hướng xã hội chủ nghĩa" nói theo Hà Nội, đã gây vấn đề cho việc sung dụng tài nguyên và phân phối lợi ích kinh tế. Tài nguyên được trút vào những dự án ít giá trị kinh tế nhưng có lợi cho đảng viên kiêm doanh gia, và thành quả kinh tế được phân phối trước tiên cho tập đoàn lãnh đạo ở các địa phương. Phép vua của Bộ Chính trị vẫn thua lệ làng của các Trung ương Ủy viên ở cấp địa phương.

Đảng Cộng sản Trung Quốc chưa thể mường tượng ra một thể chế liên bang cho một xứ sở rộng lớn, có nhiều dị biệt và mâu thuẫn như vậy. Họ cũng không muốn nghĩ đến một giải pháp chính trị thích hợp cho hình thái kinh tế thị trường. Họ muốn có một chế độ phi cầm phi thú để chiếm lợi thế của kinh tế tự do lẫn chính trị độc tài, và họ gặt hái kết quả tệ hại nhất trong cả hai lãnh vực: kinh tế tự do thiếu luật lệ công minh và chính trị độc tài thiếu giải pháp cứu vãn.

Tại Việt Nam, mỗi khi cần tranh luận về việc kinh tế thị trường có cần tới chính trị dân chủ hay không, người ta thường viện dẫn mẫu mực Trung Quốc để biện minh cho sự chuyên quyền của giới lãnh đạo. Lý luận ấy sắp trở thành lỗi thời.

Nhưng dù sao thì đấy cũng chỉ là một vấn đề lý luận. Trong thực tế thì khi Trung Quốc bị khủng hoảng, Việt Nam sẽ bị họa lây. Chuyện ấy mới là điều đáng quan tâm hơn!

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trong công cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp để giành lại chủ quyền cho dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước Việt Nam, tiền nhân của chúng ta đã gian khổ cùng một lòng đánh đuổi bọn xâm lăng ra khỏi mảnh đất thân yêu mà Tổ tiên ta đã bao đời dầy công gầy dựng. Cho nên nhìn lại dòng lịch sử dân tộc từ Bắc vào Nam ở đâu và lúc nào cũng có những vị anh hùng dân tộc đứng lên liều mình cứu nước chống giặc ngoại xâm...
Dự án “Funan Techo Canal” nhằm phục hồi một hệ thống đường thủy đã được xây dựng và vận hành từ triều đại Đế chế Funan-Khmer [sic] có từ khoảng 500 năm trước Công Nguyên. Công trình này nhằm cải thiện giao thông đường thủy trong lãnh thổ Cam Bốt. Con kênh này có chiều dài 180 km, kết nối 4 tỉnh: Kandal, Takeo, Kampot, và Kep. Mục đích chính của dự án này như một kết nối lại với lịch sử và nhằm cải thiện giao thông đường thủy cho các cộng đồng cư dân địa phương. Triển khai dự án này phù hợp với cam kết của Cam Bốt theo điều khoản 1 và 2 của Hiệp Định Sông Mekong 1995, với sự bình đẳng về chủ quyền, tôn trọng những quyền hạn và các lợi ích chính đáng..
Người nhập cư Việt Nam được biết đến với “đạo đức làm việc” mạnh mẽ của họ. Họ sẵn sàng bỏ ra nhiều giờ và hy sinh để đạt được mục tiêu của mình. Tính cần cù này đã giúp họ thành công trong nhiều lĩnh vực, bao gồm kinh doanh, giáo dục và các ngành nghề khác...
Sau một vài năm ở Mỹ và đã quen hơn với vùng đất mới của họ, những người nhập cư Việt Nam đã chuyển đến các khu vực đô thị lớn để tạo ra các “biệt khu dân tộc” (ethnic enclaves) với những người Mỹ gốc Á khác...
Từ đợt đầu di tản sau biến cố 30/4/1975, chừng 125,000 người. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi bộ đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, Hoa Kỳ đã ra lệnh sơ tán ngay lập tức nhân viên Hoa Kỳ và hàng nghìn quan chức quân sự và ngoại giao của miền Nam Việt Nam. Các kênh truyền hình tin tức Mỹ đã phát đi những hình ảnh đau lòng về cuộc không vận hỗn loạn, trong đó có đám đông công dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng tràn ngập ngoài cổng Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Làn sóng đầu tiên đến vào năm 1975 như một phần của 140.000 người của Đông Dương được sơ tán ban đầu qua lệnh của Tổng thống Gerald Ford. Những người tị nạn đó, hầu hết đều có trình độ học vấn và nói được một ít tiếng Anh, đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ công chúng Mỹ mong muốn được xóa bỏ ít nhiều mặc cảm tội lỗi về việc quân đội Mỹ đột ngột rời khỏi miền Nam Việt Nam. Đến năm 1978, kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái và sự chào đón nồng nhiệt này không còn nữa (1).
Giữa những hình ảnh cánh đồng hoa anh túc và những chiến hào sũng nước trong ký ức chung về Thế Chiến I, ít ai để ý đến sự hiện diện của các trại tù binh chiến tranh ở vùng đảo British Isles. Nhưng trong suốt cuộc chiến, Anh đã giam giữ gần 116,000 người trong các trại tù binh trên khắp đất nước, từ Cung điện Alexandra ở London đến một trang trại cũ trên Đảo Isle of Man. Trong số đó có một võ sĩ đấm bốc và nghệ sĩ biểu diễn xiếc người Đức tên là Joseph Pilates.
Cựu Trung tướng Phạm Quốc Thuần đã qua đời vào lúc 8 giờ sáng ngày Thứ Sáu 18-8-2023 tại Fountain Valley, California, hưởng thọ 98 tuổi. Ông sinh ngày 31-8-1926 tại Hà Đông. Trung tướng Phạm Quốc Thuần giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Bộ Binh (Thủ Đức) ngày 20-8-1969...
Bát Nhã Tâm Kinh của Phật học có câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Từ “sắc” trong câu kinh dùng để chỉ vật chất và những gì có hình tướng. Còn “không” là cái không bao giờ xẩy ra. Từ “không” được nhắc đến nhiều trong đạo Phật chính là “Chân Không Diệu Hữu”. Như vậy, “sắc tức thị không, không tức thị sắc” là nói đến “thật tướng” của vạn pháp và đấy chính là “vô tướng”, từ “cái không” do nhân duyên hợp lại thành “cái có”. Và, ngược lại, từ “cái có” tất yếu trở về “cái không”. Chu kỳ ấy là bất diệt, cứ tiếp nối nhau đến vô tận. Đó là cách tiếp cận theo triết học tôn giáo hay siêu hình học. Nhìn từ nhãn quan vật lý học, “cái có” có thể đến từ “cái không” được không? Theo thuyết Big Bang thì có vẻ là như thế. Vật chất tồn tại như ta nhìn thấy – hàng tỉ tỉ dải thiên hà, mỗi thiên hà có hàng tỉ tỉ ngôi sao, mỗi ngôi sao là một hệ thái dương có thể có nhiều hành tinh, mỗi hành tinh là một thế giới như quả đất chúng ta đang sinh sống – đến từ “cái không có gì”,
Nhân Lễ Tưởng Niệm Nhị vị Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và Nguyễn Văn Bông được tổ chức ngày hôm nay 13/08/2023 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng tiểu bang Victoria-Úc, Ban Tổ Chức có nhờ tôi chia sẻ đề tài “Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhà hoạt động chính trị chân chính”, dưới đây là một số điều tôi được biết về cuộc đời chính trị của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
✱ Đs Anh/Đs Lodge: Đề xuất của Hồ Chí Minh về một hiệp định đình chiến - Nhu đã đáp lại rằng đề xuất này "không thực tế" nhưng có thể trở thành thực tế trong ba hoặc bốn tháng tới và đang được nghiên cứu. ✱ Báo Espresso, Italia: Ông Nhu sẵn lòng từ bỏ viện trợ Mỹ nếu đó là cái giá phải trả để loại bỏ sự hiện diện của người Mỹ - Nhu cho biết Việt Nam có thể tồn tại mà không cần người Mỹ - Ông Nhu phản ứng phẫn nộ khi người Mỹ muốn ông rời khỏi đất nước. ✱ Nhà báo M.West,Úc: Ông Nhu nói rằng ông muốn tất cả, lặp lại, tất cả các cố vấn Mỹ đều phải rời đi - Không có người Mỹ, chúng ta có thể thắng chiến tranh trong hai hoặc ba năm - Hiện nay trong ngoại giao Mỹ ở Việt Nam, không có đạo đức. ✱ Đại sứ Lodge: Chúng ta nên xem xét việc rút quân là một khả năng ngày càng gia tăng. Sự bắt đầu của việc rút quân có thể gây ra một cuộc đảo chính...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.