Hôm nay,  

Tro Cốt Của Chủ Nghĩa Toàn Trị (2)

4/11/200100:00:00(View: 6325)
Elena Bonner

Chúng tôi đã sống và tiếp tục sống trong một quốc gia của những điều dối trá. Lời dối trá lớn gọi Nga là một quốc gia dân chủ. Những tiến trình bầu cử vừa mới được thai nghén đã bị hiếp đáp trong những cuộc bầu cử ở Chechnya, trong cuộc chiến lần thứ nhất ở đây, và cứ thế xẩy ra sau đó, trong chiến thắng bầu cử năm 1996 của Yeltsin, vốn được quyết định phần lớn bằng tiền bạc chứ không phải bằng ước muốn của những người đi bầu. Rồi tới việc chỉ định Putin, kẻ thừa kế Yeltsin, như thể Nga là một vương quốc, và lần này, không chỉ tiền bạc: đòn bẩy bầu cử chủ yếu đã biến thành điều gọi là “những biện pháp hành chánh”, nghĩa là một áp lực trực tiếp từ chế độ. Trò bầu cử “máy móc” như vậy cứ thế trải dài ra, từ viên thủ hiến cho tới những viên chức địa phương. Và một khi không có những cuộc bầu cử đúng đắn (valid), thì cũng không có dân chủ, theo đúng định nghĩa của từ này. Khi chuyện này xẩy ra ở Beralus, mọi người đều gật gù, như vậy là phản dân chủ, nhưng chẳng ai dám nói như thế với nước Nga, do sợ hãi.

Cái chế độ dựng đứng (vertical) được xây dựng bởi Putin - chia nước Nga ra làm bẩy “okrugs”, đứng đầu bởi một viên chức do tổng thống chỉ định, hoạch định hiến pháp cho những thể chế cộng hòa quốc gia, thay đổi đường lối theo đó thượng viện được thành lập, bằng cách hạn chế chức năng của nó – chế độ này được đưa ra như là một chương trình nhằm mang lại trật tự cho nước Nga. Nhưng những thay đổi này đã đem thêm quyền lực vốn đã không giới hạn cho tổng thống, và trên thực tế, đã biến nước Nga đa quốc gia, từ một xứ sở mang tính liên bang thành một quốc gia tập trung quyền lực vào một trung tâm, và trở thành thống nhất một khối, cũng theo nghĩa này. Và như vậy, chúng đạp đổ Hiến pháp của đất nước chúng tôi.

Liền lập tức theo đó, những con người từ những cơ quan an ninh – nghĩa là từ KGB-FSB, và quân đội – đã và đang được bổ nhiệm vào những chức vụ cao cấp trong chính quyền, bảo đảm ảnh hưởng của họ trên toàn quốc. Do đó, những năm gần đây lại một loạt những bắt bớ và những phiên toà như vả vào mặt luật pháp. Trong đó có trường hợp thương gia người Mỹ, Edmond Pope; nhà ngoại giao Valentin Moiseyev; ký giả Grigory Pasko, và sĩ quan hải quân Sergei Nikitin. Những người này bị buộc tội gián điệp. Đấy là chưa kể vụ buộc tội, hoàn toàn do dàn dựng, nhắm vào ký giả Andrei Babitsky vào năm vừa rồi. Đâu phải chỉ có một, mà ít nhất cũng trên vài vụ ám sát chính trị đã được hoàn toàn giải quyết.

Một hiện tượng nguy hiểm khác rong ruổi cùng những lời dối trá, đó là mở rộng kiểm soát của nhà nước về mặt truyền thông đại chúng, dưới những vỏ bọc: trừng phạt những vi phạm tài chính, chống tham nhũng hối lộ. Trong khi huỷ diệt một số những cơ quan và cơ sở tín dụng điều hành ngành xuất bản hoặc những đài truyền hình, nhà nước tạo ra, dưới sự kiểm soát của nó, những cơ quan xuất bản và đài truyền hình khác, quyền lực hơn, và tham nhũng hơn. Cứ cách thức làm ăn như vậy được áp dụng trong những địa bàn khác và tất cả đều nằm dưới chiêu bài chống tham nhũng. Và trong khi cả thế giới biết về những toan tính của chính quyền nhằm nắm lấy ngành truyền hình quốc gia, và chiến dịch của nhà nước chống lại Boris Berezovsky và Vladimir Gusinsky, những vụ bách hại này hiển nhiên mang mầu sắc bài Do Thái, rất ít người biết chuyện gì xẩy ra cho truyền thông đại chúng ở những vùng đất xa xôi của đất nước. Ở những nơi chốn hẻo lánh đó, những vụ việc tương tự như trên thường xuyên chấm dứt bằng bạo động, thành thử khó mà bảo đây là những trường hợp ngoại lệ. Như thể, trong một khoảng thời gian ngắn, thực sự không có những đài truyền hình tự do, độc lập, hay là một phương tiện truyền thông nào khác ở Nga.Thay vì vậy, chúng tôi có “Chủ thuyết An Ninh về Thông Tin”, nó đòi hỏi nhà nước phải kiểm tra báo chí và truyền hình.

Nhưng thảm họa và nhục nhã lớn của nước Nga mới, là hai cuộc chiến tại Chechnya và công cuộc diệt chủng đối với dân chúng đất nước này. Những cuộc chiến này đã được thổi phồng trước đó, bởi tuyên truyền nhằm chống Chechnya. Vẫn là những lời dối trá. Sau bao nhiêu năm, từ “chuchmek” đã được sử dụng trên toàn Liên bang Xô viết và nước Nga [sau đó], đây là một từ xúc phạm nhằm chỉ tất cả những người không phải gốc Slavic; một nhãn hiệu mới được đem ra thay thế, “người mang tính quốc gia Caucasian”, được sử dụng không phải chỉ ở trên đường phố, bởi “những đám đông”, mà luôn cả trong những tài liệu chính thức.

Cuộc chiến tranh lần đầu, là do Yeltsin cần, để nâng cao thế giá của ông ta trong những cuộc thăm dò dư luận; và nhờ nó mà đám đàn em vây quanh ông ta đã ôm được hàng tỉ rúp. Cuộc chiến đó chấm dứt với sự huỷ diệt hoàn toàn thành phố Grozny. Cư dân của nó chừng nửa triệu người. Con số người tị nạn: ba trăm ngàn người. Những sự độc ác, tàn nhẫn trong khi xẩy ra chiến tranh ở Samashki và những làng mạc khác – những sự độc ác tàn nhẫn mà chúng ta có thể chắc chắn một điều là, sẽ chẳng có một toà án theo kiểu Nuremberg nào ở đây. Cuộc chiến cướp đi cuộc sống của trên một trăm ngàn thường dân, sinh sĩ Nga, và kháng chiến quân Chechnya. Và cuộc chiến đó mang tên: “công cuộc tái lập trật tự theo như hiến pháp qui định.” Những nhà lãnh đạo Tây phương (ông bạn Bill, ông bạn Helmut, và tất cả những ông bạn còn lại), đã coi cụm từ trên có giá “face value” [giá trị trên danh nghĩa], (hay giả đò nó có giá như vậy – dối trá lây lan như bệnh hủi, như thiên tai, dịch hạch). Họ nghĩ, cách tốt nhất là có mặt tại Moscow vào lúc cao điểm của cuộc chiến, để tham dự cuộc diễn binh kỷ niệm lần thứ 50 chiến thắng của Đồng Minh trong Cuộc Chiến Lớn II.

(còn tiếp một kỳ)

Jennifer Tran chuyển ngữ.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.
Kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4/75, 50 năm trôi qua, đã có không biết bao nhiêu sách vở nói về cái ngày bi thương đó của dân tộc Việt Nam, nhưng có lẽ không gì trung thực và sống động cho bằng chính những bản tường trình trên báo chí vào đúng thời điểm đó từ những phóng viên chiến trường tận mắt chứng kiến thảm cảnh chưa từng có bao giờ của hàng trăm ngàn người, dân cũng như quân, liều mình xông vào cõi chết để tìm cái sống. Năm 2025, đánh dấu 50 năm biến động lịch sử đó, Việt Báo hân hạnh được đăng tải loạt bài viết của ký giả Đinh Từ Thức ghi lại chi tiết từng ngày, đôi khi từng giờ, những điều xảy ra trong mấy tuần lễ trước và sau ngày 30/4/75 để chúng ta có cơ hội cùng sống lại những giờ khắc bi thảm và kinh hoàng ấy đã xảy ra như thế nào.
Năm Carlton Terry 12 tuổi, hệ thống trường học tại Quận Prince Edward, bang Virginia, bất ngờ đóng cửa đối với tất cả trẻ em người da đen. Nhớ lại năm đầu tiên ấy, ông kể: “Tất cả những gì tôi biết là tôi không được đến trường, và tôi biết lý do tại sao. Tôi nhận ra rằng hệ thống pháp luật được tạo ra không phải để bảo vệ tôi. Tôi nhớ những ngày ngồi nhà, sững sờ trước màn hình TV, xem chương trình Amos ’n’ Andy. Mỗi ngày, tôi đọc báo để xem liệu có gì thay đổi hay không.”
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.