Hôm nay,  

Tro Cốt Của Chủ Nghĩa Toàn Trị (3, Kỳ Chót)

12/04/200100:00:00(Xem: 4525)
Elena Bonner

Cuộc chiến Chechnya lần thứ nhì, là do kẻ kế vị đệ nhất tổng thống Nga cần tới. Cuộc tấn công, không thể nào giải thích nổi, vào Dagestan của hai người cầm đầu du kích quân đặt bản doanh tại Chechnya, và quan trọng hơn, những vụ nổ nhà cửa, bin-đinh tại những đô thị Nga, gây thương tích cho hàng trăm người – những biến cố trên đã đưa đến chuyện cả nước hỗ trợ cuộc chiến, nâng cao thế giá cho Putin, và một cuộc bầu cử chắc ăn. (Tôi không hiểu trách nhiệm những vụ nổ là do ai, nhưng nói theo kiểu “suy bụng ta ra bụng người”, chúng giống vụ cháy toà nhà quốc hội Đức, Reichstag). Tới đây, cuộc chiến Chechnya có một cái tên gọi mới, nghe kêu bong bong: “cuộc chiến chống lại khủng bố quốc tế”. Những quốc gia Tây phương chấp nhận cái tên này (hoặc nói ra như vậy); họ cũng làm một cuộc trình diễn bảo vệ nhân quyền, bằng cách thông qua những giải pháp không ép buộc, phơi ra những sự độc ác tàn nhẫn xẩy ra ở Chechnya, tại Hội đồng Âu châu, hay ở những diễn đàn tương tự như vậy. Nhưng có vẻ họ đang chờ đợi, rằng một “giải pháp chót” sẽ xẩy ra!

Tôi nhận ra một điều, tôi đang nói bằng những từ ngữ nguy hiểm. Nhưng làm sao khác được hở Trời, làm sao không nhắc tới những vụ dội bom chết chóc, những vụ tiếp tục tàn sát người dân Chechnya, cũng như những trại giam, những con số không thể đếm được xác chết trẻ con, đàn bà, người già cả, hàng ngàn ngàn dân tị nạn giữa trời, trong những căn lều. Nếu đây không phải là diệt chủng, thì nó là cái gì" Nước Nga đã mất theo cùng với hai cuộc chiến, nền dân chủ sơ sinh của nó.

Trước hai cuộc chiến Chechnya, có cuộc chiến Afghanistan. Do Liên bang Xô viết phát động, và một khi rút ra khỏi, đã làm như chẳng mắc mớ gì tới nó. Nhưng cho tới bây giờ, những ngọn lửa do Liên bang Xô viết gây nên, vẫn bừng bừng cơn giận dữ ở đó. Cùng lúc, Liên bang Xô viết đã cho dựng cột đồng, đời đời ghi danh phần đóng góp của nó trong cuộc chiến này. Tất cả mọi người tại Nga, và tại những xứ sở thuộc cựu Liên Bang Xô viết, đã chiến đấu tại Afganistan, đều nhận được mề đay, trên khắc những dòng chữ: “Xin người chiến sĩ quốc tế nhận nơi đây lòng biết của nhân dân Afghanistan.” Lời dối trá ghi trên tấm huy chương là một sự sỉ nhục đối với một vùng đất bị xám đen vì lửa đạn, đối với một triệu rưỡi người tị nạn, và hàng trăm ngàn người đã chết. Biết ơn, vì cái gì cơ chứ"

Kể làm sao cho xiết, và làm sao có thể chịu đựng nổi, biết bao lời gạt gẫm, và giả trá, đã rót vào đầu óc nhân dân, trong những năm xẩy ra những cuộc chiến kể trên. Và cũng phải nhắc tới những tai họa khác (vụ nổ nhà máy nguyên tử Chernobyl, động đất ở Neftyugansk, vụ nổ tầu ngầm nguyên tử Kursk). Cùng lúc đó, chúng ta tiếp tục nghe những lời dối trá của nhà nước, và chúng làm nhớ tới những lời dối trá tại Liên bang Xô viết thời kỳ Stalin và hậu-Stalin. Sự thực làm sao có thể đối đầu với cả một khối sừng sững những dối trá như vậy" Một lần, có một bạn trẻ đã nói với tôi về Mùa Xuân Prague: “Đấy là do tụi Tiệp tấn công chúng mình!”

Được nuôi dưỡng dậy dỗ bằng những lời dối trá như thế, làm sao một xã hội có thể trưởng thành và nắm lấy trách nhiệm của nó" Một xã hội non trẻ với tất cả những ngu ngơ dại khờ của nó - cần tới một người lãnh đạo, và những người làm theo gương người lãnh đạo - rất dễ nổi sùng, sẵn sàng “rửa nhục”, dối trá và tin tưởng cùng một lúc. Trong văn chương, [nhà văn người Anh, Nobel văn chương] William Golding đã diễn tả điều này ở trong cuốn “Lord of the Flies”. Những người cảm nhận ra sự giả trá trong xã hội Xô viết, do trực giác, họ đã chạy trốn những lời dối trá về nhân văn, bằng cách lựa chọn những nghề nghiệp cụ thể, thiết thực, trở thành kỹ sư, bác sĩ, nhạc sĩ. Và khi có dịp, rất nhiều người đã bỏ đi. Mẹ tôi, một công nhân chuyên môn ở trong Đảng, đã trở về vào năm 1933 để nghiên cứu về ngành kiến trúc. Vậy mà cũng không thoát được khủng bố. Bị bắt năm 1937, bà thiết kế công trình những trại giam, những hàng rào kẽm gai… và cùng với những bạn tù, họ đã xây dựng chúng.

Với sự sụp đổ của chế độ toàn trị – với cái chết của Stalin, bài diễn văn của Khrushchev, thời kỳ Băng Tan, và “shestidesyatniki”, những phong trào tự do thập niên 1960 – tới thời đại của những người ly khai. Trong số họ, có rất nhiều những nhà vật lý, toán học, kỹ sư, sinh hoá học, và hầu như không có những sử gia hay triết gia. Những những người ly khai chỉ là một dúm, chỉ vài trăm người trong một xứ sở mà dân số đã trên một phần sáu cư dân của trái đất. Thật khó mà nói, họ có được một quan điểm mang tính triết học rõ rệt; nhưng sự sáng suốt, nếu nói về viễn ảnh của họ, thật khác biệt, so với viễn ảnh của hàng triệu triệu con người khác. Điều này đem sức mạnh đến cho họ, để xổ toẹt những lời dối trá, gìn giữ lòng tự trọng, [bởi vì] nếu không có nó, sẽ chẳng thể nào có sự kính trọng tha nhân, và cuộc sống, và có thể, sau cùng, điều này sẽ đem đến cơ may hạnh phúc. Tại sao có quá ít những con người biết được hạnh phúc nghĩa là gì nhỉ" Người ta nói tới lương tâm. Nhưng [nếu như thế] lương tâm lại là một món gì cực kỳ cao giá, và chỉ dành riêng cho một ít người. Với hầu hết những con người còn lại, nó chỉ là cơn mộng cuồng, và như lịch sử cho thấy, nó rất dễ bị ném vào thùng rác.

Trong bản dự thảo hiến pháp Xô viết, Sakharov viết: “Mục đích của những dân tộc nằm trong Liên bang Xô viết và những chính quyền của họ, đó là một cuộc sống hạnh phúc, tràn đầy ý nghĩa, tự do về tinh thần và vật chất, khỏe mạnh, và bình an”. Tôi không biết mục đích của nhà cầm quyền Nga bây giờ. Nhưng trong những thập niên sau Sakharov, người dân Nga chẳng tăng thêm được một tí hạnh phúc nào, cho dù Sakharov đã làm đủ mọi điều mà ông có thể làm để hướng xứ sở về phía con đường đưa tới mục đích kể trên. Riêng ông, ông đã sống một cuộc đời đáng sống, và hạnh phúc.

Hannah Arendt đã may mắn sinh ra là một người Do Thái, điều này giúp bà có những chọn lựa đúng tại Đức vào thập niên 1920 và 1930. Bà có may mắn được biết tình yêu là gì, và làm luận án của bà về Thánh Augustine và về tình yêu. Trong nghiên cứu của bà về cuộc sống của nhà trí thức Do Thái thế kỷ 18, Rahel Varnhagen, bà có thể tìm ra những đồng điệu với cuộc sống của chính bà, và viết một cuốn sách đem đến ý nghĩa cho phụ nữ thời đại của chúng ta. Vào năm 1950, bà đã có can đảm viết về sự tương tự giữa hai chế độ giết người, trong khi hầu hết những trí thức Tây phương bưng chặt tai, khi thoáng nghe bất cứ ai nhắc tới sự khủng bố của Stalin. Như Orpheus xuống vương quốc của người chết, vì tình yêu Eurydice, Hannah Arendt đã lặn lội vào trong mớ tài liệu lịch sử và chính trị, làm bật ra nỗi kinh hoàng lớn lao, và để lại cho chúng ta cuốn sách của bà “Những nguồn gốc của chủ nghĩa toàn trị”: như là một bài học, và một lời cảnh cáo.

Nhân loại, ở bậc thềm thiên niên kỷ mới mẻ, sẽ lưu tâm tới lời cảnh cáo đó" Đây là một câu hỏi cho những ngày như thế này. Andrei Sakharov viết: “Tương lai có thể tuyệt vời, nhưng có thể cũng chẳng có tương lai gì ráo trọi. Điều này tuỳ thuộc vào chúng ta.”

Jennifer Tran chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.
Kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4/75, 50 năm trôi qua, đã có không biết bao nhiêu sách vở nói về cái ngày bi thương đó của dân tộc Việt Nam, nhưng có lẽ không gì trung thực và sống động cho bằng chính những bản tường trình trên báo chí vào đúng thời điểm đó từ những phóng viên chiến trường tận mắt chứng kiến thảm cảnh chưa từng có bao giờ của hàng trăm ngàn người, dân cũng như quân, liều mình xông vào cõi chết để tìm cái sống. Năm 2025, đánh dấu 50 năm biến động lịch sử đó, Việt Báo hân hạnh được đăng tải loạt bài viết của ký giả Đinh Từ Thức ghi lại chi tiết từng ngày, đôi khi từng giờ, những điều xảy ra trong mấy tuần lễ trước và sau ngày 30/4/75 để chúng ta có cơ hội cùng sống lại những giờ khắc bi thảm và kinh hoàng ấy đã xảy ra như thế nào.
Năm Carlton Terry 12 tuổi, hệ thống trường học tại Quận Prince Edward, bang Virginia, bất ngờ đóng cửa đối với tất cả trẻ em người da đen. Nhớ lại năm đầu tiên ấy, ông kể: “Tất cả những gì tôi biết là tôi không được đến trường, và tôi biết lý do tại sao. Tôi nhận ra rằng hệ thống pháp luật được tạo ra không phải để bảo vệ tôi. Tôi nhớ những ngày ngồi nhà, sững sờ trước màn hình TV, xem chương trình Amos ’n’ Andy. Mỗi ngày, tôi đọc báo để xem liệu có gì thay đổi hay không.”
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.