Hôm nay,  

Cổ Phần Hóa: Lao Động Dư Dôi

10/25/200600:00:00(View: 24273)

Cổ Phần Hóa: Lao Động Dư Dôi

...doanh nghiệp nhà nước có từ một phần ba đến một nửa là những người bị coi là “dư dôi”...

Tiếp tục loạt bài về cải cách doanh nghiệp, Diễn đàn Kinh tế sẽ đề cập tới việc xử lý lực lượng lao động dư thừa có thể bị mất việc khi cổ phần hoá, trong kế hoạch tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước. Cuộc trao đổi với kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về đề tài này sẽ do Việt Long thực hiện.

- Hỏi: Qua hai kỳ trước, chúng ta đã có dịp trao đổi về một số vấn đề thường gặp trong việc cải cách doanh nghiệp của nhà nước, cụ thể là để cổ phần hoá rồi tư nhân hoá các cơ sở quốc doanh này, như Chính phủ tại Việt Nam vừa đề ra. 

Kỳ này, chúng ta sẽ đề cập tới một vấn đề thường làm công nhân viên các doanh nghiệp nhà nước quan tâm nhất, đó là công ăn việc làm của họ một khi các cơ sở này đổi chủ.

- Thưa vâng, đây là loại vấn đề phức tạp nhất và là lý do, đôi khi là lý cớ, để cản trở việc tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước. Tôi xin phép được giải thích.

Một trong những lập luận phổ biến nhất của chế độ kinh tế bao cấp chính là để bảo vệ quyền lợi của giới lao động và từ đó bảo vệ sự ổn định xã hội và chính trị. Cái giá phải trả cho việc bảo vệ ấy là kinh tế khủng hoảng và nhà nước phá sản, chế độ có thể tự sụp đổ như chúng ta đã thấy trong khối Xô viết 15 năm về trước.

- Hỏi: Còn tại Việt Nam và một số nước khác thì khi đổi mới, chế độ bao cấp chấm dứt, và công nhân được nuôi bằng các xí nghiệp quốc doanh sẽ mất việc" 

- Đúng vậy, việc từ bỏ chế độ bao cấp dẫn đến yêu cầu cải tổ rồi tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước. Khi ấy, kế hoạch cải tổ gặp trở ngại lớn nhất – và thật ra chính đáng – là số phận của lực lượng lao động xưa kia vẫn được bảo vệ, từ nay sẽ phải xoay trở lấy về mọi mặt. Cũng vì vậy mà việc cải cách doanh nghiệp không thể không dự trù giải pháp về lao động.

Điều ấy cần đặt ra vì một thuộc tính của chế độ bao cấp là có hiệu năng sản xuất kém, có quá nhiều thành phần ta gọi là “lao động dư dôi”, nghĩa là tiếng là có việc mà làm thì ít, và là thành phần đầu tiên có thể bị sa thải khi doanh nghiệp đổi chủ. Lúc ấy, họ sẽ đi đâu"

- Hỏi: Đó có phải là mối quan tâm chính, khiến nhiều người e ngại hoặc cản trở việc cải tổ các doanh nghiệp nhà nước" 

- Trong mọi việc cải tổ ở mọi thời mọi nơi, ta đều thấy cái lẽ được-thua xen kẽ với nhau. Ngay trước mắt, nếu có người được lợi thì cũng có người bị thiệt. Mọi quyết định kinh tế thuộc phạm vi quốc gia cũng gây chuyện được thua như thế và chuyển hoá thành vấn đề chính trị. Quy tắc giải quyết ở đây là lãnh đạo phải nhìn thấy cái lẽ lợi hại về lâu dài và cho một tập thể đông đảo là cả quốc dân.

Chuyện cải cách doanh nghiệp hay cải cách bất cứ một hệ thống kinh tế xã hội nào cũng gặp nan đề ấy. Chính quyền sáng suốt là chính quyền biết dự đoán hậu quả và trình bày sự thể một cách minh bạch cho mọi người cùng thấy chuyện lợi hại về lâu về dài.

- Hỏi: Trở lại khái niệm ông gọi là “lao động dư dôi” trong doanh nghiệp nhà nước, ông vui lòng giải thích thêm về hiện tượng đó. 

- Trong chế độ bao cấp, mục tiêu của kế hoạch kinh tế là xã hội. Người ta cải tạo quan hệ sản xuất cũng để nhắm vào cải tạo xã hội. Chế độ ấy phá sản vì mục tiêu đó đi ngược với mục tiêu phát triển và thực sự dẫn đến hiện tượng “sản nhập” thay vì sản xuất vì tiêu thụ tài nguyên quốc gia nhiều hơn là sản lượng làm giàu thêm cho quốc gia.

Một hậu quả của chế độ bao cấp ấy là người ta tuyển dụng công nhân viên nhiều hơn mức đòi hỏi của sản xuất. Vì nhà nước ôm đồm bao biện và đòi cung cấp tất cả - từ hàng hoá, dịch vụ đến giáo dục đào tạo - cho xã hội nên đã sử dụng lực lượng lao động mà không cần tới hiệu năng. 

Hỏi: Dù sao, tình trạng ấy nay đã được nhìn ra và có giảm bớt chăng" 

Bây giờ, khi cải cách doanh nghiệp, người ta mới thấy ra là cơ sở quốc doanh này lỗ lã và tình trạng lao động giả hiệu hay thất nghiệp trá hình ấy phải chấm dứt. Lúc ấy mới thấy nói đến nạn lao động dư dôi nhàn rỗi của những người đáng lẽ có thể làm việc khác có lợi hơn cho gia đình và quốc gia. Cơ hội tìm ra việc khác thì nay đã có nhờ tư doanh được phép xuất hiện, nhưng nhiều người không có khả năng đó thì sao" Thì họ phải cố kéo dài hiện trạng để tồn tại và thấy rất bất an. Cải cách doanh nghiệp sẽ phải xử lý vấn đề này.

- Hỏi: Như vậy, ông có thể nói rõ hơn, là đến nay vấn đề này ở Việt Nam còn là trở ngại lớn hay không, nếu còn thì cần được giải quyết như thế nào" 

- Từ khi Việt Nam được quốc tế viện trợ để cải cách doanh nghiệp, người ta đã tìm hiểu về kích thước của vấn đề này nhưng chưa thể có một câu trả lời đơn giản. 

Về mặt kỹ thuật thì ta có rất nhiều lý luận của học phái kinh tế biên tế, dựa trên lợi ích hay phí tổn của đơn vị sản xuất sau cùng, gọi là biên tế, để tính ra là cơ sở kinh doanh cần tuyển dụng nhân viên đến người thứ mấy thì còn có lợi, thêm nữa là lỗ. Từ đó mà suy ngược về hiện trạng, là có quá nhiều nhân viên, thì có thể đoán ra, tôi nói là đoán ra chứ không hẳn là tính ra một cách chính xác, là có bao nhiêu người dư dôi.

Một cách tính nữa là so sánh với tình hình tại các nước khác, hoặc so sánh doanh nghiệp nhà nước với các cơ sở liên doanh có vốn đầu tư của nhà nước và nước ngoài, hoặc với các cơ sở tư doanh có cùng sản lượng trong cùng một thị trường. Nói chung, quốc doanh trên thế giới thường có tỷ lệ lao động dư dôi khoảng 30% cấp số nhân viên. Tại Việt Nam, tỷ lệ này có thể ở biên độ từ 30 đến 50%. Trong số hơn 20% dân số lao động toàn quốc làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước thì có đến từ một phần ba đến một nửa là những người được coi là “dư dôi”.

- Hỏi: Nghĩa là nếu các doanh nghiệp nhà nước được tư nhân hoá thì trong một trăm công nhân viên sẽ có từ 30 đến 50 người mất việc" Tỉ lệ ông đưa ra có lớn quá chăng" 

- Thưa, đấy là một cách trình bày vấn đề. Thực ra, rất nhiều người trong số này có thể đã “chân ngoài dài hơn chân trong”, là có tên trong sổ lương của nhà nước nhưng kiếm sống bằng cách khác. Nhưng khi họ còn đứng tên trong đó thì vẫn còn được hưởng phúc lợi như nhà cửa, y tế sức khoẻ, v.v... Tình trạng này sẽ không chấm dứt khi doanh nghiệp được bán cho tư nhân, mà phải được giải quyết sớm hơn. Không một nhà đầu tư tư nhân nào lại chịu mua doanh nghiệp với một lực lượng lao động dư thừa như vậy. 

- Hỏi: Có phải vì thế mà việc cổ phần hoá được tiến hành quá chậm"

- Thưa đấy là một phần của vấn đề thôi vì sau đó, giới đầu tư cũng đòi hỏi là có quyền cải cách về quản lý, từ tổ chức quản trị ra ngân sách ra tới vấn đề lao động. Họ đầu tư vì doanh lợi và sẽ tăng lương cho người có khả năng nhưng sẽ sa thải thành phần dư dôi nhàn rỗi và không muốn nhà nước dùng lực lượng công đoàn của nhà nước xoi mói vào việc quản trị của họ. Lúc đó, luật lệ lao động, cụ thể là việc sa thải và tuyển dụng, hoặc tiêu chuẩn lương bổng và hoạt động công đoàn, sẽ như thế nào thì cũng phải thỏa đáng và rõ ràng. Giới đầu tư không muốn bước vào tiếp tục công tác xã hội của nhà nước bao cấp. 

- Hỏi: Và có lẽ câu hỏi chính của đề tài, là lúc đó nhà nước sẽ phải xử trí ra sao" 

- Tôi thiển nghĩ là ta có hai cách nhìn vào vấn đề này, từ giác độ kinh doanh tới giác độ kinh tế, với đòi hỏi quan trọng nhất cho mọi người là chuyển hướng ôn hoà.

Về mặt kinh doanh - tức là trong phạm vi một doanh nghiệp - người ta có cả chục giải pháp kỹ thuật để thành phần dư dôi có thể tự nguyện trước khi bị cưỡng bách nghỉ việc. Ta không quên là thời say men cách mạng, người ta hô hào công nhân góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội khi họ phục vụ cho nhà nước hay doanh nghiệp nhà nước, và vì phục vụ cách mạng, họ có rất nhiều quyền lợi, đa số là bất thành văn. Bây giờ, khi cho họ nghỉ hưu sớm hoặc đòi lại những phúc lợi đã hưởng thì cũng phải có sự đền bù và sự đền bù này phải được tính vào những tốn kém khi định giá doanh nghiệp mà ta đã nói đến kỳ trước. Nhà nước chứ không phải là tư doanh phải giải quyết vấn đề này trong giai đoạn cổ phần hoá.

- Hỏi: Đó là về quyết định trong phạm vi một xí nghiệp. Trong phạm vi kinh tế thì sao" 

- Đó là giác độ thứ hai của vấn đề và giải pháp. Nếu tiêu cực nhìn vào một người lao động như một miệng ăn và tranh cãi về việc thỏa mãn họ theo lý luận về giá trị lao động như thời của Marx thì mình chỉ gây tinh thần đấu tranh giai cấp nay đã lạc hậu. Nếu tích cực nhìn vào người lao động như đôi tay có thể đóng góp vào sự thịnh vượng của tập thể thì ta nên tự đặt câu hỏi là vì sao họ lại dư dôi, làm không hết sức" Giải đáp câu hỏi ấy thì sẽ góp phần giải quyết việc cải cách doanh nghiệp.

- Hỏi: Vậy những cách giải quyết cụ thể bài toán ấy là gì"

- Đấy là then chốt của cải cách doanh nghiệp. Ta cần làm cho vấn đề được sáng tỏ, tức là phải có thông tin và lý luận thay vì thông báo và nghị quyết.

Lực lượng lao động từ doanh nghiệp nhà nước có thể một bước đi vào doanh nghiệp tư được không nếu tư doanh chưa được tự do về kinh doanh và lao động" Việt Nam đã mở cho tư doanh được làm ăn dễ dàng hơn, họ càng phát triển thì càng góp phần giải quyết bài toán lao động của quốc doanh và giảm bớt sức ép về thất nghiệp và động loạn xã hội. Vì vậy, phải giải tỏa luật lệ cho tự do hơn để lao động dễ chuyển dần qua tư doanh.

Thứ hai, lao động trong quốc doanh có vui lòng đi ra không" Ta có vấn đề thương thảo chuyện đền bù về lương lậu hưu bổng. Kinh nghiệm thế giới cho thấy là càng rộng rãi và dễ dãi giải quyết một cách thoả đáng thì doanh nghiệp nhà nước càng sớm được cải cách và việc tư nhân hoá càng mau hoàn tất. Gánh nặng kinh tế của việc đền bù ấy là vấn đề cấp quốc gia và sẽ ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước nhưng vẫn rẻ hơn chế độ bao cấp.

- Hỏi: Nhưng, ngoài việc làm trong doanh nghiệp nhà nước, công nhân viên còn được hưởng nhiều phúc lợi xã hội – như gia cư, hưu bổng, y tế. Nếu mất hệ thống yểm trợ ấy thì công nhân dư dôi sẽ không muốn đi. Hoặc khi bị sa thải thì gia đình họ đói khổ, bất mãn. Làm sao giải quyết bài toán ấy"

- Chính vì vậy mà cải cách doanh nghiệp cũng đòi hỏi phải cải cách chế độ an sinh xã hội để khỏi gây ra xáo trộn quá đáng cho đời sống của thành phần lao động sẽ bị chuyển dịch. Trung Quốc đang ngần ngại và có khi sẽ bị động loạn chính là vì không giải đáp được bài toán ấy. Hoàn cảnh Việt Nam chưa đến nỗi nguy ngập như vậy, nhưng việc một số đảng viên cán bộ cao cấp đã hưởng quá nhiều phúc lợi mờ ám nhờ doanh nghiệp nhà nước cũng đang gây bất mãn cho dân chúng nếu nhân viên cấp dưới phải trắng tay ra đi.

Sau cùng, cần nhìn lại hệ thống giáo dục và đào tạo để giải quyết một vấn đề trường kỳ, thường trực tức là bao trùm lên cả hồ sơ cải cách doanh nghiệp, đó là khả năng đào tạo, huấn nghệ và tái huấn luyện để người dân bắt kịp những đòi hỏi về năng lực lao động trong một môi trường sẽ thường xuyên đổi thay. Nhà nước phải ưu tiên giải quyết việc ấy, và chiều hướng chung của thế giới là phải để tư nhân góp phần giải quyết vấn đề ấy. Nếu có công đoàn tự do, chính các công đoàn này sẽ là lực lượng tái huấn luyện đáng kể.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
Hãy tưởng tượng bạn là một người thợ mỏ khai thác đồng tại Đông Nam Âu Châu vào năm 3,900 trước Công Nguyên. Mỗi ngày, bạn phải gồng mình kéo từng tảng quặng qua những đường hầm chật hẹp và ngột ngạt. Cuộc sống cứ thế trôi qua trong nỗi mỏi mệt rã rời và sự đơn điệu không hồi kết. Nhưng rồi một chiều nọ, điều kỳ lạ xảy ra: một anh bạn đồng nghiệp xuất hiện với một thứ trông thật lạ mắt, và anh ta thản nhiên kéo theo đống quặng gấp ba lần trọng lượng cơ thể mình – chỉ trong một chuyến đi.
Làn sóng tranh luận dữ dội đang diễn ra xoay quanh câu hỏi: liệu những gì đang xảy ra tại Gaza kể từ tháng 10 năm 2023 có phải là hành vi diệt chủng hay không? Vấn đề này đã được đưa ra trước Tòa Án Quốc Tế (International Court of Justice, ICJ), Nam Phi đệ đơn kiện Israel, cáo buộc quốc gia này đã phạm tội diệt chủng. Phiên tòa bắt đầu từ tháng 12 năm 2023, nhưng đến nay ICJ vẫn chưa đưa ra phán quyết cuối cùng.
Ngày 27/5 vừa qua, trên mạng xã hội, nhiều người đã đăng lời chúc mừng sinh nhật gửi tới tù nhân Phạm Đoan Trang. Trước đó vài tuần, một tù nhân nổi tiếng khác là Trịnh Bá Phương đã bị khởi tố thêm tội danh "tuyên truyền chống Nhà nước" khi đang ở tù. Những dòng tin này nhắc nhở rằng tự do, dân chủ, nhân quyền vẫn còn là những vấn đề nhức nhối tại Việt Nam, 50 năm sau khi cuộc chiến kết thúc.
Sáng thứ Bẩy ngày 24 tháng 5 vừa qua, trong buổi lễ tốt nghiệp tại vận động trường Michie của Học Viện Quân Sự Hoa Kỳ ở West Point, khi chuẩn tướng Rogelio Garcia, chỉ huy trưởng Học Viện, tuyên bố giải tán khóa 2025, hàng ngàn chiếc mũ képi trắng được các học viên của khóa tung lên trời. Tiếng reo hò tở mở từ các tân thiếu úy đang đứng dưới sân cỏ và thân nhân của họ trên khán đài tạo nên một quang cảnh với âm thanh vừa đẹp mắt, vừa tưng bừng, vừa cảm động.
Đoàn Viết Hoạt sanh năm 1942 tại Nam định. Năm 1954 theo gia đình di cư vào Nam. Năm 1965 tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sàigòn ban Anh Văn. Năm 1966 lập gia đình với chị Trần Thị Thức, một nữ sinh viên trong phong trào sinh viên Saigon lúc bấy giờ. Năm 1967 ĐVHoạt du học Hoa Kỳ về môn Tổ Chức và Quản Trị Đại Học tại Đại học Florida State (FSU), Tallahassee, Florida. Năm 1971, đậu Ph.D. về Giáo Dục. Sau đó, Đoàn Viết Hoạt trở về nước giữ chức vụ Phụ tá Viện trưởng tại Viện Đại học Vạn Hạnh cho đến 30 tháng Tư, 1975.
Một cuộc triển lãm mới tại thành phố Philadelphia soi chiếu hành trình tiến hoá của sức khoẻ dinh dưỡng tại Hoa Kỳ qua một lăng kính độc đáo: căng-tin học đường. Mang tựa đề “Giờ Ăn Trưa: Lịch Sử Khoa Học Trên Khay Thức Ăn Học Đường,” cuộc triển lãm miễn phí tại Viện Lịch sử Khoa học Philadelphia trưng bày các bích chương, tài liệu, dụng cụ khoa học, sách dinh dưỡng và ảnh chụp để thuật lại câu chuyện về các bữa ăn tại trường học ở Mỹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.