Hôm nay,  

Kiểu Nga Ở Xứ Mỹ: Di Dân Nga Gửi Con Đi Học Kèm

5/8/200100:00:00(View: 4393)
NEWTON (KL) – Tin của Boston Globe - Công thức Emigres giải quyết thành công sự giảng dạy toán học tại Newton.

Irene Khavinson yêu quốc gia mới của cô. Cô ngừng nói, nhu mì nhìn xuống mặt bàn, trước khi đưa ra ý kiến làm thế nào dạy toán học tại các trường học của Hoa kỳ.

Với giọng nói nặng tiếng Nga, Khavinson đã phải nói ra: “Tôi ghét nói vấn đề này, nhưng tất cả đều sai. Lối dạy đi lầm. Vấn đề quá dễ dàng. Vấn đề không được nối kết. Người ta cho nhẩy từng đề mục, các đề mục phải được kết nối theo toán học. Có nghĩa là toán học diễn tiến theo lối suy diễn.”

Khavinson đã dạy môn toán 15 năm, những gì đã được dạy tại Leningrad trước khi cô di cư sang Hoa kỳ cách đây một chục năm. Cô đã ngại ngùng dạy học tại đây, sợ rằng cô gặp rắc rối trong việc điều khiển những học sinh Hoa kỳ vốn ngỗ nghịch.

Nhưng hiện nay, sau khi thôi làm kế toán viên và làm tại một công ty bán vải, cô trở lại với lớp học, áp dụng đường lối Thế giới Ngày xưa như không có chủ định trước.

Trường học Nga chuyên dạy toán là một ngôi nhà mầu trắng với cửa chớp mầu xanh, trường cách trung tâm Newton một dẫy phố, trường này đã phát triển nhanh kể từ khi cô Khavinson với 50 học sinh, và cô Inessa Rifkin, một di dân người Nga khác với 43 học sinh cách đây ba năm.

Khởi dạy với một nhúm học sinh, bây giờ cả hai dạy khoảng 360 học sinh học ngoài giờ các lớp của các trường học, những học sinh của lớp hai cô cỡ từ 5 tuổi cho tới 17 tuổi. Phần đông các học sinh ghi tên học là con cái của những di dân người Nga.

Nhưng vào thời buổi cho con cái đứng đầu trong các trường đại học của Hoa kỳ đã trở thành cái ám ảnh của thành phố này, đường lối dạy của các trường học Nga thấy thành công – điểm thi nhập học tính theo SAT (Scholastic Assessment Test) cho các học sinh của trường Nga này phần đông đều cao hơn hết tất cả, đã khiến cho một số phụ huynh học sinh sinh đẻ tại Hoa kỳ phải chú ý.

Mặc dầu cô Khavinson và cô Riflin chỉ quảng cáo trên các báo tiếng Nga, ngày nay trường của hai cô đã lãnh dạy 40 học sinh mà cha mẹ chúng không phải là người gốc Nga theo như số học sinh này được so sánh với cách đây ba năm.

“Con trai thà thích môn bóng rổ, môn đá banh và theo sói của hướng đạo sinh, chúng đều thích tất cả những thứ này. Nhưng chúng tôi nói với các con của chúng tôi, cái quan trọng là việc học hành và khả năng của các con để lên đại học. Chúng đã hiểu việc này và bây giờ toán học là môn mà chúng cảm thấy thích thú,” theo như Kent Lucken, người mới ghi tên học cho hai đứa con trai : Alex, 9 tuổi và Ryan, 6 tuổi.

Alex thường mặc đồng phục của hướng đạo sinh lớp sói con tại trường học vào một ngày của cuối tuần, em nói em thích những bài đại số đang học, theo trường học công của Hoa kỳ các bài đại số này phải 5 năm nữa mới đuợc học.

Ryan cho biết, trường học Nga đã làm em thích thú học như họcï toán trừ có liên hệ tới tính chia. Cô Khavinson cho biết, không có gì lầm lẫn cả khi dạy các trẻ em có quan niệm toán học cấp tiến như môn đại số học, theo cô đại số là môn chính yếu.

Cô Khavinson cho biết, các trường học Hoa kỳ dạy môn này rất ít, đùng một cái dạy ngay vào môn lượng giác học cho các học sinh tại trung học.

Các bậc phụ huynh người Nga đã từng trải qua việc học hành như thế đều đồng ý về chuyện này. “Cái điều ngạc nhiên đối với tôi làm thế nào để học sinh nhẩy từ cái không được dạy trong trường học cấp trung để học ngay mức học quá khó như tại trung học Newton South,” theo như lời của Natalie Gershman, một di dân Nga có con trai là Jeff, một học sinh năm thứ nhất của trường trung học Newton South H.S.đang theo học bổ túc tại trướng Nga này.

“Sự thay đổi thiệt quá đột ngột làm mất đi sự suy diễn của học sinh.”

Betty Kantrowitz là một cô giáo dạy toán tại trường Newton South, cô đã đồng ý là các học sinh phải có quan niệm toán cấp tiến từ lúc sớm hơn mới theo học môn toán học được về sau này.

Nhưng cô Kantrowitz, người đã lãnh ba giải thưởng của quốc gia Hoa kỳ, đã thận trọng trong việc vơ đua cả nắm đối các người dạy toán tại Hoa kỳ. Cô nói rõ, trường Nga này phục vụ số người đã có sẵn định hướng để thành công. “Thấy rõ ràng, các học sinh đi học trường Nga này đã chú tâm vào học nhiều hơn những gì đã đưa ra cho các học sinh này ở các nơi khác. Những học sinh đã có sẵn động lực thúc đẩy bao giờ cũng dễ giảng dạy và dễ kích thích cho chúng ham học,” theo như Kantrowits có một học trò đang theo học trường Nga.

Các bậc phụ huynh có động lực thúc đẩy không làm thương tổn tới việc học hành của con, nó như một thứ đố vui để học.

Cô Rifkin đã thu dụng Khavinson và mở ra trường học sau khi cô nhận ra đứa con của cô học lớp tám không biết rằng nó có thể cộng phân số có các mẫu số khác nhau. Cô Rifkin là một kỹ sư điện toán nhu liệu đã khởi công kèm con học. Sau đó cô kèm thêm mấy đứa bạn học của nó.

Chẳng bao lâu, những đưá trẻ con của di dân người Nga ùn ùn đến để đòi xin cho con được kèm học. (Riflin không cần thiết phải lấy phép của tiểu bang để mở trường cho chương trình kèm trẻ em học thêm).

Những gì mà người Hoa kỳ có quyền tưởng như thứ kỷ luật của Sô-viêt được công thức hóa, nhưng nó không thấy có trong các lớp học của trường Nga này : Riflin và Khavinson không có vẫy cây gậy chỉ trên bảng đen hăm dọa hay đập vào bất cứ ngón tay nào của các học sinh.

Các học sinh ngồi bàn thành hàng và dơ tay lên để trả lời các câu hỏi, giống y như các học sinh đang học tại các trường học Hoa kỳ. Nhưng ở đây hiển nhiên có cái khác lạ. Các cô giáo tại trường học Nga này không lấy bài vở trong các cuốn sách học hay bài hướng dẫn của các giáo sư đã soạn- các cô tự cho các bài toán để dễ dàng dạy nhanh hay dạy chậm theo một học trình học thích hợp cho từng nhóm học sinh đặc biệt. Các cô dạy toán học theo lối đi sâu hơn là chỉ dạy nhớ nằm lòng các công thức của toán học.

“Chúng tôi không biểu các em, ‘Đây là công thức, phải nhớ’,” theo như lời của Khavinson cho biết. “Chúng tôi cho phát hiện công thức với nhau dùng tất cả sự hiểu biết của chúng tôi. Vì toán học là môn học của sự suy diễn (deduction).”

Cái quan trọng nhất mong đợi là vươn lên cao.

Một buổi tối vào cuối tuần, Riflin đã hỏi học sinh của lớp cô dạy về điểm SAT của môn toán học mà cô đã dạy như thế nào.

“Em được 660 câu hỏi đúng,” một em trai tóc đỏ đã trả lời cho biết, xem ra em đã có vẻ hãnh diện với điểm ưu hạng đó.

Điểm hoàn toàn đúng là phải trả lời đúng tất cả 800 câu hỏi.

Nhưng cô giáo Rifkin đã không có vẻ bằng lòng mấy, cô cho biết : “Điểm còn quá thấp”. Cô Riflin hỏi em khác, em này cho biết đã trả lời trúng được 720 câu, theo như số tuổi của em. Cô đã nói : “Em học lớp chín hả " Điểm của em khá đấy.”

Các bức hình chụp treo ngay trên hành lang của trường học để chúc mừng cho những học sinh đã thành công nhất là những hình như : “Rita Rozenblum, SAT IIc 800/800”; “Levon Margolin, SAT Math, 800/800”; “Ilya Abyzov, SAT 1580/1600, lớp 11.”

Các bậc phụ huynh đã trả 12 Mỹ kim một giờ học, thiệt không uổng chút nào. Các em nhỏ theo học một giờ học buổi tối mỗi tuần, nhưng học sinh lớn tuổi hơn thì học gấp hai mỗi tuần, mỗi buổi học là hai tiếng đồng hồ. Có nhiều học sinh từ các nơi xa tới học, có em ở New Hamsphire cuối tuần chạy bộ tới học ba hay bốn tiếng đồng hồ.

Trường học Nga này không phải là một loại “ mathematic sweatshop” (xưởng mồ hôi toán học).
Cô giáo Riflin và cô giáo Khavinson công nhận học sinh của hai cô thuộc về thế hệ người Hoa kỳ đầu tiên, không phải dân gốc Nga, hai cô đã rộng lượng để được đùa giỡn một phần nào đó.

Các học sinh này nói tiếng Anh rất thông thạo, mặc áo Green Day T-shirts và nhổm lên nhổm xuống, dự vào việc nói đùa với các cô giáo một cách dễ chịu. Các học sinh đều sinh ra tại Hoa kỳ, nhưng các em này cũng thuộc dòng giống di dân cố gắng để vươn lên.

Jeff Gershman là một học sinh chơi ba loại thể thao cho trường trung học Newton South, em đã cho biết : “Lúc đầu bạn cảm thấy bực mình. Nhưng sau đó bạn làm quen với các cô giáo tại đây, các bạn phải hiểu, việc này sẽ giúp các bạn trong bước đường về lâu về dài.”

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.
Kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4/75, 50 năm trôi qua, đã có không biết bao nhiêu sách vở nói về cái ngày bi thương đó của dân tộc Việt Nam, nhưng có lẽ không gì trung thực và sống động cho bằng chính những bản tường trình trên báo chí vào đúng thời điểm đó từ những phóng viên chiến trường tận mắt chứng kiến thảm cảnh chưa từng có bao giờ của hàng trăm ngàn người, dân cũng như quân, liều mình xông vào cõi chết để tìm cái sống. Năm 2025, đánh dấu 50 năm biến động lịch sử đó, Việt Báo hân hạnh được đăng tải loạt bài viết của ký giả Đinh Từ Thức ghi lại chi tiết từng ngày, đôi khi từng giờ, những điều xảy ra trong mấy tuần lễ trước và sau ngày 30/4/75 để chúng ta có cơ hội cùng sống lại những giờ khắc bi thảm và kinh hoàng ấy đã xảy ra như thế nào.
Năm Carlton Terry 12 tuổi, hệ thống trường học tại Quận Prince Edward, bang Virginia, bất ngờ đóng cửa đối với tất cả trẻ em người da đen. Nhớ lại năm đầu tiên ấy, ông kể: “Tất cả những gì tôi biết là tôi không được đến trường, và tôi biết lý do tại sao. Tôi nhận ra rằng hệ thống pháp luật được tạo ra không phải để bảo vệ tôi. Tôi nhớ những ngày ngồi nhà, sững sờ trước màn hình TV, xem chương trình Amos ’n’ Andy. Mỗi ngày, tôi đọc báo để xem liệu có gì thay đổi hay không.”
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.