Hôm nay,  

Tro Cốt Của Chủ Nghĩa Toàn Trị (3, Kỳ Chót)

4/12/200100:00:00(View: 4559)
Elena Bonner

Cuộc chiến Chechnya lần thứ nhì, là do kẻ kế vị đệ nhất tổng thống Nga cần tới. Cuộc tấn công, không thể nào giải thích nổi, vào Dagestan của hai người cầm đầu du kích quân đặt bản doanh tại Chechnya, và quan trọng hơn, những vụ nổ nhà cửa, bin-đinh tại những đô thị Nga, gây thương tích cho hàng trăm người – những biến cố trên đã đưa đến chuyện cả nước hỗ trợ cuộc chiến, nâng cao thế giá cho Putin, và một cuộc bầu cử chắc ăn. (Tôi không hiểu trách nhiệm những vụ nổ là do ai, nhưng nói theo kiểu “suy bụng ta ra bụng người”, chúng giống vụ cháy toà nhà quốc hội Đức, Reichstag). Tới đây, cuộc chiến Chechnya có một cái tên gọi mới, nghe kêu bong bong: “cuộc chiến chống lại khủng bố quốc tế”. Những quốc gia Tây phương chấp nhận cái tên này (hoặc nói ra như vậy); họ cũng làm một cuộc trình diễn bảo vệ nhân quyền, bằng cách thông qua những giải pháp không ép buộc, phơi ra những sự độc ác tàn nhẫn xẩy ra ở Chechnya, tại Hội đồng Âu châu, hay ở những diễn đàn tương tự như vậy. Nhưng có vẻ họ đang chờ đợi, rằng một “giải pháp chót” sẽ xẩy ra!

Tôi nhận ra một điều, tôi đang nói bằng những từ ngữ nguy hiểm. Nhưng làm sao khác được hở Trời, làm sao không nhắc tới những vụ dội bom chết chóc, những vụ tiếp tục tàn sát người dân Chechnya, cũng như những trại giam, những con số không thể đếm được xác chết trẻ con, đàn bà, người già cả, hàng ngàn ngàn dân tị nạn giữa trời, trong những căn lều. Nếu đây không phải là diệt chủng, thì nó là cái gì" Nước Nga đã mất theo cùng với hai cuộc chiến, nền dân chủ sơ sinh của nó.

Trước hai cuộc chiến Chechnya, có cuộc chiến Afghanistan. Do Liên bang Xô viết phát động, và một khi rút ra khỏi, đã làm như chẳng mắc mớ gì tới nó. Nhưng cho tới bây giờ, những ngọn lửa do Liên bang Xô viết gây nên, vẫn bừng bừng cơn giận dữ ở đó. Cùng lúc, Liên bang Xô viết đã cho dựng cột đồng, đời đời ghi danh phần đóng góp của nó trong cuộc chiến này. Tất cả mọi người tại Nga, và tại những xứ sở thuộc cựu Liên Bang Xô viết, đã chiến đấu tại Afganistan, đều nhận được mề đay, trên khắc những dòng chữ: “Xin người chiến sĩ quốc tế nhận nơi đây lòng biết của nhân dân Afghanistan.” Lời dối trá ghi trên tấm huy chương là một sự sỉ nhục đối với một vùng đất bị xám đen vì lửa đạn, đối với một triệu rưỡi người tị nạn, và hàng trăm ngàn người đã chết. Biết ơn, vì cái gì cơ chứ"

Kể làm sao cho xiết, và làm sao có thể chịu đựng nổi, biết bao lời gạt gẫm, và giả trá, đã rót vào đầu óc nhân dân, trong những năm xẩy ra những cuộc chiến kể trên. Và cũng phải nhắc tới những tai họa khác (vụ nổ nhà máy nguyên tử Chernobyl, động đất ở Neftyugansk, vụ nổ tầu ngầm nguyên tử Kursk). Cùng lúc đó, chúng ta tiếp tục nghe những lời dối trá của nhà nước, và chúng làm nhớ tới những lời dối trá tại Liên bang Xô viết thời kỳ Stalin và hậu-Stalin. Sự thực làm sao có thể đối đầu với cả một khối sừng sững những dối trá như vậy" Một lần, có một bạn trẻ đã nói với tôi về Mùa Xuân Prague: “Đấy là do tụi Tiệp tấn công chúng mình!”

Được nuôi dưỡng dậy dỗ bằng những lời dối trá như thế, làm sao một xã hội có thể trưởng thành và nắm lấy trách nhiệm của nó" Một xã hội non trẻ với tất cả những ngu ngơ dại khờ của nó - cần tới một người lãnh đạo, và những người làm theo gương người lãnh đạo - rất dễ nổi sùng, sẵn sàng “rửa nhục”, dối trá và tin tưởng cùng một lúc. Trong văn chương, [nhà văn người Anh, Nobel văn chương] William Golding đã diễn tả điều này ở trong cuốn “Lord of the Flies”. Những người cảm nhận ra sự giả trá trong xã hội Xô viết, do trực giác, họ đã chạy trốn những lời dối trá về nhân văn, bằng cách lựa chọn những nghề nghiệp cụ thể, thiết thực, trở thành kỹ sư, bác sĩ, nhạc sĩ. Và khi có dịp, rất nhiều người đã bỏ đi. Mẹ tôi, một công nhân chuyên môn ở trong Đảng, đã trở về vào năm 1933 để nghiên cứu về ngành kiến trúc. Vậy mà cũng không thoát được khủng bố. Bị bắt năm 1937, bà thiết kế công trình những trại giam, những hàng rào kẽm gai… và cùng với những bạn tù, họ đã xây dựng chúng.

Với sự sụp đổ của chế độ toàn trị – với cái chết của Stalin, bài diễn văn của Khrushchev, thời kỳ Băng Tan, và “shestidesyatniki”, những phong trào tự do thập niên 1960 – tới thời đại của những người ly khai. Trong số họ, có rất nhiều những nhà vật lý, toán học, kỹ sư, sinh hoá học, và hầu như không có những sử gia hay triết gia. Những những người ly khai chỉ là một dúm, chỉ vài trăm người trong một xứ sở mà dân số đã trên một phần sáu cư dân của trái đất. Thật khó mà nói, họ có được một quan điểm mang tính triết học rõ rệt; nhưng sự sáng suốt, nếu nói về viễn ảnh của họ, thật khác biệt, so với viễn ảnh của hàng triệu triệu con người khác. Điều này đem sức mạnh đến cho họ, để xổ toẹt những lời dối trá, gìn giữ lòng tự trọng, [bởi vì] nếu không có nó, sẽ chẳng thể nào có sự kính trọng tha nhân, và cuộc sống, và có thể, sau cùng, điều này sẽ đem đến cơ may hạnh phúc. Tại sao có quá ít những con người biết được hạnh phúc nghĩa là gì nhỉ" Người ta nói tới lương tâm. Nhưng [nếu như thế] lương tâm lại là một món gì cực kỳ cao giá, và chỉ dành riêng cho một ít người. Với hầu hết những con người còn lại, nó chỉ là cơn mộng cuồng, và như lịch sử cho thấy, nó rất dễ bị ném vào thùng rác.

Trong bản dự thảo hiến pháp Xô viết, Sakharov viết: “Mục đích của những dân tộc nằm trong Liên bang Xô viết và những chính quyền của họ, đó là một cuộc sống hạnh phúc, tràn đầy ý nghĩa, tự do về tinh thần và vật chất, khỏe mạnh, và bình an”. Tôi không biết mục đích của nhà cầm quyền Nga bây giờ. Nhưng trong những thập niên sau Sakharov, người dân Nga chẳng tăng thêm được một tí hạnh phúc nào, cho dù Sakharov đã làm đủ mọi điều mà ông có thể làm để hướng xứ sở về phía con đường đưa tới mục đích kể trên. Riêng ông, ông đã sống một cuộc đời đáng sống, và hạnh phúc.

Hannah Arendt đã may mắn sinh ra là một người Do Thái, điều này giúp bà có những chọn lựa đúng tại Đức vào thập niên 1920 và 1930. Bà có may mắn được biết tình yêu là gì, và làm luận án của bà về Thánh Augustine và về tình yêu. Trong nghiên cứu của bà về cuộc sống của nhà trí thức Do Thái thế kỷ 18, Rahel Varnhagen, bà có thể tìm ra những đồng điệu với cuộc sống của chính bà, và viết một cuốn sách đem đến ý nghĩa cho phụ nữ thời đại của chúng ta. Vào năm 1950, bà đã có can đảm viết về sự tương tự giữa hai chế độ giết người, trong khi hầu hết những trí thức Tây phương bưng chặt tai, khi thoáng nghe bất cứ ai nhắc tới sự khủng bố của Stalin. Như Orpheus xuống vương quốc của người chết, vì tình yêu Eurydice, Hannah Arendt đã lặn lội vào trong mớ tài liệu lịch sử và chính trị, làm bật ra nỗi kinh hoàng lớn lao, và để lại cho chúng ta cuốn sách của bà “Những nguồn gốc của chủ nghĩa toàn trị”: như là một bài học, và một lời cảnh cáo.

Nhân loại, ở bậc thềm thiên niên kỷ mới mẻ, sẽ lưu tâm tới lời cảnh cáo đó" Đây là một câu hỏi cho những ngày như thế này. Andrei Sakharov viết: “Tương lai có thể tuyệt vời, nhưng có thể cũng chẳng có tương lai gì ráo trọi. Điều này tuỳ thuộc vào chúng ta.”

Jennifer Tran chuyển ngữ

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Một nhóm khoa học giả quốc tế đã thấy bằng chứng lâu đời nhất về cà ri bên ngoài Ấn Độ và cho thấy ý nghĩa lịch sử của hành trình mà các thành phần gia vị này đã trải qua để đến đó. Các nhà nghiên cứu từ Úc, Việt Nam và Trung Quốc đã tìm thấy món ăn này – được biết đến với hương vị cay nồng của đất, có nguồn gốc từ Nam Á và hiện đã phổ biến trên toàn cầu – có lẽ đã được đưa đến bàn ăn của người Việt Nam hơn 1800 năm trước nhờ mạng lưới thương mại hàng hải.
Ở Hoa Kỳ, khi ai đó qua đời, thường thì họ sẽ được ướp xác, đặt trong quan tài và chôn cất tại nghĩa trang (thổ táng), hoặc mang đi hỏa táng, phần tro cốt sẽ được trả lại cho gia đình, người thân. Tuy nhiên, thổ táng và hỏa táng nay đã không phải là các lựa chọn duy nhất. Ngày càng có nhiều nhà tang lễ, cả các công ty khởi nghiệp và tổ chức vô vụ lợi, cung cấp cho mọi người những nghi thức khác nhau dành cho người đã khuất. Trong tương lai, bối cảnh nghi thức tang lễ sẽ đa dạng hơn…
Đã mấy năm nay, một nhóm tên "Sinh viên tranh đấu cho được nhập học công bằng" (Students for Fair Admissions) kiện Đại Học Harvard về tình trạng mà họ cho là bất công lúc xét các ứng viên Á châu nộp đơn vào trường đại học ưu tú này của Mỹ. Nhóm này cho rằng Harvard thực hành “affirmative action” (hành động khẳng định) và "racial balancing" (quân bình chủng tộc) trong quá trình quyết định ai được nhận ai bị từ chối. Nếu không, theo họ, nếu chỉ căn cứ trên thành tích học tập (academics) tỷ lệ sinh viên Á châu được nhận sẽ là 43% tổng số, hay ít lắm 26% nếu xét thêm về hoạt động ngoại khóa, thể thao hay gia đình quen biết với trường ("legacy"); chứ không thấp như mức 18.7% như hiện nay.
Cuộc chiến trên đất nước chúng ta chấm dứt đã gần nửa thế kỷ và được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Bài nầy xin trở lại vấn đề gọi tên cuộc chiến để hiệu đính và bổ túc thêm bài trước cách đây khá lâu của cùng người viết.
Các nhà quan sát đương thời có thể khá ngạc nhiên khi biết rằng nguồn gốc của cụm từ “affirmative action” – cụm từ chứa đầy ý nghĩa trong bối cảnh chính trị ngày nay – có vài phần bí ẩn. Nói rộng ra, Affirmative Action (tạm dịch là Chính Sách Nâng Đỡ Người Thiểu Số) đề cập đến các chính sách và thực tiễn được thiết kế để tăng cơ hội cho các nhóm người thiểu số như người da màu trong lịch sử. Trong tuần này, quyết định của Tối Cao Pháp Viện (TCPV) về chính sách “affirmative action” sẽ đem đến những thay đổi đáng kể trong tương lai tuyển sinh ở các trường đại học trên khắp Hoa Kỳ. Vào ngày 29 tháng 6, TCPV đã ra phán quyết rằng các trường cao đẳng và đại học tư thục cũng như công lập không còn được coi chủng tộc là một yếu tố xem xét trong tuyển sinh, đảo ngược tiền lệ pháp lý trong suốt 45 năm qua.
Các diễn biến cực kỳ sôi động về nội chính và bang giao quốc tế trong cuộc chiến tranh Đông Dương làm cho Hoa Kỳ thay đổi chiến luợc chống Cộng Sản từ hình thức trung dung sang ủng hộ Pháp. Vì sao Hoa Kỳ phát triển chính sách này lên cực điểm?
Nước Việt Nam được quốc tổ Hùng Vương sáng lập với quốc hiệu đầu tiên là Văn Lang. Các vị vua kế tiếp nhau đều lấy hiệu là Hùng Vương cả, chỉ phân biệt các đời vua theo con số thứ tự. Đến đời Hùng Vương thứ 18 thì một phiên thuộc là Thục Phán nổi lên đánh bại nhà vua và chiếm mất ngôi vào năm 257 trước Tây Lịch (TL). Thục Phán xưng hiệu là An Dương Vương, đổi quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Loa Thành (Phong Khê, Phúc Yên)...
Ở Capitol Hill và các tòa án, các nhà lập pháp và nhà hoạt động của Đảng Cộng Hòa đang tiến hành một chiến dịch pháp lý sâu rộng nhắm vào các trường đại học, các tổ chức tham vấn, các công ty tư nhân và các cá nhân nghiên cứu về sự lan truyền của thông tin sai lệch. Những người này sẽ bị cáo buộc là thông đồng với chính phủ để đàn áp phát ngôn của phe bảo thủ trên mạng.
Vào mùa thu năm ngoái, một tòa án ở Đức đã xét xử một vụ án bất thường. Đó là một vụ kiện dân sự phát sinh từ đề tài trên Twitter về việc liệu những người chuyển giới có phải là nạn nhân của Holocaust hay không. Mặc dù không còn nhiều tranh luận về việc liệu những người đồng tính nam và đồng tính nữ có bị ngược đãi hay không, nhưng có rất ít nghiên cứu về người chuyển giới trong thời kỳ lịch sử tối đen này.
Mùa hè đến rồi! Mùa của những chuyến du lịch. Người Việt ở Mỹ mùa hè thường đi thăm danh lam thắng cảnh ở Mỹ, hoặc về Việt Nam, hoặc thực hiện những chuyến đi Châu Âu, đi thăm vùng đất của lịch sử, văn hóa Tây Phương. Đến Châu Âu, những quốc gia thường được khách du lịch nhắc đến nhiều nhất vẫn là Pháp, Anh, Ý, Tây Ban Nha. Ngoài ra, Hòa Lan là một quốc gia nhỏ bé, hiền hòa, những cũng có nhiều thứ thu hút khách du lịch. Nói đến Hòa Lan là nói đến những cánh đồng hoa tulip đầy màu sắc; những chiếc cối xay gió soi bóng trên những dòng kênh xanh; hay thành phố Amsterdam tự do cấp tiến, có khu phố “Đèn Đỏ” với dịch vụ mãi dâm được chính thức và công khai hóa.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.