Hôm nay,  

Phan Thị Vàng Anh

29/08/200100:00:00(Xem: 4936)
Ý niệm nhà văn trẻ thường gây ngộ nhận, từ đó người ta dễ có cái nhìn lệch lạc bất công về tác giả lẫn tác phẩm. Raymond Radiguet thường giấu tuổi và yêu cầu mọi người hãy đánh giá mình trên chính tác phẩm chứ đừng căn cứ trên tuổi tác của mình. Một tác phẩm ra đời, tự nó tồn tại hoặc tìm kiếm cho nó một định mệnh. Tiểu sử, giới tính, tuổi tác của nhà văn không thêm thắt, sửa đổi gì được nó, và nhà văn lại càng không có ý kiến gì về nó hoặc về những gì người ta nói về nó. Đó là nét đặc trưng, cũng là cái đẹp không thay thế được của sáng tạo.

Phải nói gì về Vàng Anh" Một tài năng trẻ, một cây bút nhà nòi, một nhà văn đã sớm định hình ngay từ tập truyên đầu tay, một giải thưởng quốc gia dành cho nhà văn trẻ v.v... và còn gì nữa" Tất cả đều đúng, nhưng tôi không quên rằng vượt lên trên những thông tin đó, tác phẩm của Vàng Anh hay bất luận của ai khác dù bao người đã đọc tới và nói tới, vẫn còn và mãi mãi vẫn còn là một sự chờ đợi, một thách thức. Cho nên tôi muốn đọc Vàng Anh mà không bị rằng buộc gì bởi một định kiến có sẵn chỉ tai hại cho việc đọc của tôi, cho việc tìm kiếm cái thế giới truyện của Vàng Anh.

Hai tập truyện ra đời trong khoảng cách hai năm, mỏng mảnh như nhau, bao gồm những truyện thường ngắn, có khi rất ngắn, bấy nhiêu cho một thế giới đang hình thành, sinh sôi nảy nở, một thế giới không ngớt trở về trên những trang giấy đang kêu gọi, bổ sung cho nhau, vẫn là nó nhưng không đơn giản là nó, bởi nó luôn được vén mở, soi rọi thêm, nó luôn tìm kiếm những bến bờ và những chiều sâu mới.

Tất cả xuất hiện dưới ngòi bút Vàng Anh tự nhiên làm sao, dễ dàng làm sao như chẳng có gì quan trọng, ghê gớm trên đời này. Cuộc sống lên tiếng, người viết chỉ cần lắng nghe và tạo cơ hội cho nó, không cần tra hỏi vặn vẹo cũng không cần đặt vấn đề hay đưa ra những kết luận. Nhưng văn chương không vì thế mà biến thành cuộc dạo chơi vô hại hay trò đùa tùy hứng, tôi nghĩ Vàng Anh có tất cả để gây cho người đọc những ấn tượng không bình yên, ngay khi cô nói về những điều rất thường tình của cuộc sống, bằng cái giọng hờ hững xem ra chẳng có gì phải trố mắt kinh ngạc cả. Bởi cô có cách nói riêng của cô.

Đọc Vàng Anh là tìm đến, làm quen với cái thế giới rất gần gụi và cũng rất xa lạ, của những tâm hồn trai gái với những ưu tư, những quan hệ buộc rằng, những biến cố không vượt ngoài cuộc sống đời thực thường ngày trong những không gian rất đỗi quen thuộc từng ngày từng buổi, từ nhà tới trường, qua các đường phố, các quán cà phê, các trang sách... Đôi khi họ bước vào một chuyến đi ngắn ngủi ra khỏi thành phố, ra khỏi cuộc sống chật chội thường ngày, ra khỏi những trang sách vừa hứa hẹn vừa cầm tù tự do của họ, một chuyến đi không thích thú, khi đi cũng như khi trở về. Họ gặp nhau không sôi nổi, họ chia tay nhau không hứng thú, và dù để gặp lại hay không thì cũng với những rằng buộc lơi lỏng, không thường tồn, không tất yếu, trong tình bạn chung trường chung lớp, hay cả trong tình yêu. Họ vẫn cười nói vui đùa đó, nhưng họ có vẻ nguội lạnh thế nào ngay khi họ làm con thiêu thân mù quáng lao vào cuộc phiêu lưu nóng bỏng. Đối với họ, dường như cuộc sống lúc nào cũng toát ra mùi vị đơn điệu, buồn chán với toàn những cái nhạt nhẽo "vớ va vớ vẩn". Nếu không dửng dưng mãi được, người ta phải làm gì để lãng quên hay lấp đầy những khoảng trống" Một cuộc phiêu lưu hay một trò đùa biết đâu có thể gây được một chút cao trào. Hay ít ra cũng mang lại cho cuộc sống tẻ nhạt này một mùi vị khác thường. Họ muốn "có cái gì sẽ nổ và biết đâu sẽ vui hơn". Thậm chí có lúc họ nghĩ "bây giờ mà chết thì cũng không có gì tiếc". Phải chi mọi người hiểu được ở cái tuổi của họ "người ta điên đến mức nào, ngông cuồng đến mức nào". Không nên nhìn thái độ nổi loạn kia như một căn bịnh đến từ một phương trời hay một bóng ma văn chương nào xa lạ. Đơn giản đó là một phản ứng, và đằng sau phản ứng, đó là khát vọng sống thực đáng trân trọng. Dửng dưng hay đùa nghịch đến độc ác, đó cũng chỉ là cách nói không, trước những bóng ảnh hời hợt, gian trá, nhẫn tâm của cuộc sống.

Trong cuộc đời thực đầy những cái không thực, tình yêu cũng là mảnh đất tốt để người ta chơi trò hú tim với kẻ khác và với chính mình. Họ biết rằng họ đùa đó, nhưng họ chân thực và trọn vẹn biết bao. Bởi trò đùa ở đây không dẫn dắt tới đâu mà không ngớt đưa họ trở về với chính họ cùng ước muốn vô vọng của họ, và trên đường về có khi họ bắt gặp cái chết tự ý hay vô tình. Trò đùa buồn nản, bởi người ta yêu và nhìn mình đang yêu đồng thời biết tình yêu kết thúc khi người ta không chơi nữa, hoặc kết thúc ngay từ đầu bởi đúng ra nó không hề có thật. Làm gì có trò chơi trong trò chơi về tình yêu khi người ta vừa chơi một cách sáng suốt vừa dám "đánh đổi tất cả' và dám "lừa mình" tới nơi tới chốn. Buồn quá! Đó là không khí toát ra từ những truyện về tình yêu của Vàng Anh. Những truyện về tình yêu không có bóng dáng tình yêu nơi những người trẻ kinh ngạc với chính tuổi trẻ của mình. Tình yêu là cái gì đã qua đi, đang tan biến hay chỉ là sự chờ đợi khốn khổ: chờ đợi cái không biết đến bao giờ, sự chờ đợi tự nó như không chờ đợi gì. Chuyện tình xẩy ra dưới một mái nhà giữa người đàn bà trẻ và ba thế hệ đàn ông kế tiếp nhau đang cùng hiện diện chính là bóng ảnh say mê của những cuộc tình chồng chất lên nhau, đan chéo vào nhau với quá khứ, hiện tại và tương lai hòa quyện vào nhau. Đó là tất cả những không là gì. Đó cũng là dung nhan kỳ lạ của tình yêu, không dễ gặp trên những trang văn. "Khi mình còn trẻ", một nhân vật của Vàng Anh đã buột miệng như luyến tiếc một thời đã mất với những bóng hình trai trẻ đã qua đi, khi chỉ còn lại một chút gì để nhớ nhung để chờ đợi, tất cả mơ hồ như sương như khói. Bóng dáng tình yêu thoáng hiện mong manh quá, chẳng trọn vẹn chút nào, nhưng còn đâu!

Điều đáng nói là nhân vật của Vàng Anh, khi tỉnh táo cũng như lúc điên rồ, họ không hề đánh mất sự thuần khiết, ngay trong tuyệt vọng bế tắc. Họ thường là nạn nhân trong những cuộc chơi liều lĩnh, táo bạo, mặc dù họ vẫn sáng suốt. Có lẽ họ nhẫn tâm với chính họ hơn là với cuộc sống. Họ làm những trang văn của Vàng Anh trở nên thơ và xúc động hơn trong cái không khí âm u, xám xịt của chúng. Họ đáng yêu hơn những nhân vật của Sagan mà người đọc có thể liên tưởng tới khi đọc Vàng Anh bởi sự buồn chán, sự nổi loạn không đẩy họ tới những buông thả, phá phách, suồng sã, mù quáng một cách vô duyên cớ, đặc trưng của một tuổi trẻ nào khác, ở một nơi nào khác.

Bước vào thế giới truyện ngắn Vàng Anh tức là bước vào thế giới của khoảnh khắc tự chúng đầy đủ nhưng không đóng lại bao giờ. Có nên gọi đó là những lhaỏnh khắc mở, những khoảng khắc luôn nhắc nhở đồng thời kêu gọi những khoảnh khắc khác và mãi mãi như thế. Những khoảnh khắc của cuộc sống càng trở nên vô tận dưới ngòi bút nhà văn khi đã được nhân lên nhiều lần bằng trí tuệ và mộng tưởng của người viết và của cả người đọc. Với Vàng Anh, những khoảnh khắc đó càng mở càng thoáng, càng hứa hẹn ngay trong lượng ngôn từ dè sẻn, chắt lọc mà cô dàn trải lên trang giấy, thong dong và tự nhiên làm sao, khoảnh khắc có khi chỉ là sự kế tục hay bắt đầu lại của một khoảnh khắc khác. Câu văn mở đầu hay kết thúc dường như không hề được chuẩn bị mà chỉ xuất hiện một cách tình cờ, hờ hững có lẽ vì người ta không nhất thiết phải mở đầu hay kết thúc như thế. Mở đầu hay kết thúc cách nào thì có gì quan trọng. Bởi người viết có thể trở lại trong cuộc hành trình mới bắt đầu từ chính chỗ kết thúc. Không có dấu chấm hết cho những khoảnh khắc "kịch câm" hay tuồng đời.

Vàng Anh rất tiết kiệm chữ nghĩa. Cô cũng không dẫn dắt, không tạo đột biến, không gây bất ngờ, tất cả chừng như chỉ còn là những tiểu xảo không cần thiết. Sự việc đã xẩy ra như thế, không khác được, không né tránh được, không sửa đổi gì được: một chuyện tình buồn, một tâm trạng chờ đợi, một chuyến đi, một trò chơi bi thảm và say mê, kỷ niệm về người cha cũng là người thầy tận tụy... Tất cả giản dị quá, tự nhiên quá, dưới ngòi bút lạnh lùng của Vàng Anh dường như không chuẩn bị cho mình và cho người đọc, cũng không hàm ngụ một gợi ý đánh giá hay gửi gấm điều gì mặc dù nó không thiếu sự nhạy bén, sự sắc sảo, sự tinh tế sẵn sàng nắm bắt những gì ẩn tàng nhất, đằng sau những cái thường tình nhất, gần gũi nhất, xem ra không đáng kể. Ngòi bút Vàng Anh dễ nhận ra chất bi kịch từ những điều không đáng kể đó, đồng thời nói về bi kịch bằng giọng phớt lạnh như không. Có thứ phong cách như không thiết tha gì tới phong cách nhưng đích thực là phong cách. Có phải đó là trường hợp Vàng Anh qua hai tập truyện "Khi người ta trẻ", và "Hội Chợ""

Huỳnh Phan Anh (trích từ Không gian & Khoảnh khắc văn chương, Tiểu luận-phê bình, nhà xb Hội Nhà Văn, 1999).

Jennifer Tran giới thiệu

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi đề nghị các bạn có khả năng dịch cứ dịch, thời gian sẽ loại bỏ những gì không đúng, không phù hợp, nhưng không cần phải chỉ trích nhau về bản dịch. Nếu thấy dịch không “đúng” theo ý mình, thì mình dịch một bản khác, “đúng” hơn, để người đọc giám định và học hỏi. Có câu, “chỉ trích là rẻ tiền, hành động là đầu tư.” Người đọc có trình độ đều có thể nhìn thấy: hành động vạch lá tìm sâu, lòng tỵ hiềm, và bóng tối âm u trong lời chỉ trích thiếu hiểu biết. Thay vì mất thời giờ vạch cỏ tìm gai, sao không trồng cây hoa, cây ăn trái?
Nga phụ thuộc khá nhiều vào SWIFT với khoảng hơn 300 ngân hàng và tập đoàn tài chánh hàng đầu sử dụng SWIFT, cũng như có người sử dụng cao hàng thứ nhì sau Mỹ khi hơn phân nửa các tổ chức tín dụng Nga sử dụng SWIFT. Trục xuất Nga khỏi SWIFT là cắt mạng "internet" về tài chánh, làm tê liệt các giao dịch, thanh toán của các tổ chức tài chánh của Nga với Châu Âu và thế giới, gây biến động và xáo trộn hệ thống tiền tệ và tài chánh của Nga.
Tô Vĩnh Diện là biểu tượng của anh dũng. Vì đã lấy thân mình ngáng cho khẩu đại bác nặng hai ngàn tấn không rơi xuống vực. Tuy nhiên sau giả tưởng Lê Văn Tám, dân Việt có quyền nghi hoặc: Có thật không hay chỉ là một tai nạn, một vấp ngã hay chính em bé Lê Văn Tám đã lớn lên rồi được cấp chứng minh thư tên là Tô Vĩnh Diện sinh năm 1928 ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa? Làm sao Triều đình Huế biết đặt những tên xã, huyện đậm chất Cách mạng như vậy vào năm 1928?
331 năm trước Công nguyên, ngay sau chiến thắng Gaugamèles khi tiến vào thành Babylone, đại đế Alexandre nói trước hàng quân: “Chiến thắng này cho vinh quang và tự do”. Võ Nguyên Giáp khó tuyên ngôn như vậy trước lịch sử, vì Điện Biên Phủ không đem đến tự do cho dân Việt mà ngược lại, áp đặt một chế độ tàn khốc. Tự do nào sau đấu tố phi nhân, sau Cải cách ruộng đất, nông dân chỉ có thể cày thuê cho hợp tác xã? Và tự do nào khi dân Bắc di cư rồi dân Nam chạy theo lính Cộng hòa mỗi một khi “giải phóng” vùng “tạm chiếm”? Võ Nguyên Giáp hẳn nhiên muốn giữ lại vế đầu của Alexandre đại đế: “Điện Biên Phủ là một chiến thắng vinh quang.” Tất nhiên và không ai chối cãi, vì lần đầu tiên da vàng chiến thắng da trắng và lần đầu tiên một thuộc địa thắng đế quốc. Nhưng phía sau tấm huân chương là vinh quang cay nghiệt: Đẩy cả một dân tộc vào chiến tranh, mục đích của Hồ Chí Minh là giành độc lập, thống nhất 3 kỳ, nhưng Hiệp định Genève chỉ cho Hồ Chí Minh Bắc kỳ, Nghệ Tĩnh và Quảng Bình,
Khi Tết gần kề, như hiện tại, các diễn đàn thân hữu thường thả cho nghe vài bản nhạc Xuân. Và cứ lập lại khoảng mươi bài quen thuộc, không đủ để khích động tình xuân đang khuấy động trong lòng người chờ đón Xuân. Nhân cơ hội này mình vào lục soạn, tìm thấy quá nhiều bản nhạc về Xuân. Cả một kho tàng văn học nghệ thuật của Miền Nam Việt Nam – loại nhạc Vàng mà CS muốn giết nhưng vẫn sống mạnh và làm thay đổi hướng cảm nhận tình quê hương và lòng người lan rộng từ Nam ra Bắc.
Xin mạn phép mở ngoặc ở đây giải thích ngắn gọn. Trước hết, Ca dao là " những câu thơ của dân gian Việt Nam được truyền miệng dưới dạng những câu hát không theo một điệu nhất định và thông thường được phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ và dễ thuộc ". Đặc biệt hơn chính ca dao đã để lại dấu vết rõ rệt nhất trong ngôn ngữ văn học Việt Nam. Trong đó phần lớn nội dung ca dao thể hiện tình yêu nam nữ. Ngoài ra còn có các nội dung khác như: quan hệ gia đình, các mối quan hệ phức tạp trong xã hội. Và tóm lại ca dao có thể được hiểu theo nghĩa ngắn gọn là những câu thơ dân gian được truyền miệng từ xưa do tổ tiên ta để lại.
Hoàng Sa (Paracel Archipelago) là một quần đảo gồm khoảng trên 100 đảo nhỏ trên Thái Bình Dương (Biển Đông), giữa kinh tuyến 111 và 113 độ Đông, và vĩ tuyến 15 đến 17 độ Bắc, ngang với vùng bờ biển từ tỉnh Quảng Trị đến tỉnh Quảng Ngãi. Quần đảo nầy gồm hai nhóm: Nhóm phía tây là Nguyệt Thiềm (hay Trăng Khuyết) (Crescent group) và nhóm phía đông bắc là An Vĩnh (Amphitrite group). Trong lịch sử, nhiều tài liệu chứng tỏ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông thuộc chủ quyền nước Việt. Có thể trước hoặc trong thơi Hiên Vương Nguyễn Phúc Tần (cầm quyền ở miền nam sông Gianh từ 1659-1687), chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa, nhiệm vụ ra vào hàng năm theo mùa gió, nhằm kiểm soát và khai thác tài nguyên ở quần đảo nầy. Từ thời nhà Nguyễn, hàng năm, triều đình gởi thuyền ra Hoàng Sa thăm dò rồi trở về. Năm 1835 vua Minh Mạng sai thuyền chở gạch đá, đến xây đền trên đảo Bàn Than (thuộc Hoàng Sa), dựng bia để ghi dấu, gieo hạt trồng cây.
Từ lần xuất bản đầu tiên và duy nhất năm 2001, cuốn sách đã tuyệt bản này là nguồn tư liệu vô giá về một giai đoạn dày đặc biến động của lịch sử Việt Nam thế kỷ 20. Đọc lại những ghi chép của nhà thơ Trần Dần (1926-1997) về thời kì Cải cách Ruộng đất và Nhân văn-Giai phẩm, tôi vẫn kinh ngạc bởi sự thành thực tận cùng, thành thực đến tàn nhẫn khắc nghiệt, của ông với chính bản thân mình. Cuộc vật lộn của ông với thời đại không phải chỉ là một bi kịch từ vị thế nạn nhân mà đa tầng, đa diện hơn nhiều: Ông cũng là một tác nhân và trước hết là một chứng nhân lỗi lạc, với một khả năng quan sát, phân tích, ghi nhận, diễn đạt hiếm có và một lí tưởng sục sôi cháy bỏng với nghệ thuật văn chương.
Lời người dịch: Một trong những câu hỏi mình luôn gặp phải là mọi người đều muốn "hiểu" một tác phẩm, một bản nhạc cổ điển, một tác phẩm điêu khắc, một bức tranh trừu tượng,... Và dù có giải thích rằng chúng ta không cần hiểu thì mọi người vẫn luôn băn khoăn. Một tác phẩm nghệ thuật thường vốn không mang nhiều nội dung ngoài vẻ đẹp của nó, trong âm nhạc là giai điệu (lời hát chỉ là một phần rất phụ), trong tạo hình thì là đường nét và bố cục. Và chúng ta nên thưởng thức nghệ thuật bằng cái nguyên sơ của một đứa trẻ. Thật trớ trêu khi càng có nhiều tri thức, chúng ta lại càng khó tiếp thu nghệ thuật vì suy nghĩ quá nhiều. Tác phẩm của Susan Sontag đã được dịch ra tiếng Việt thì có "Bàn về nhiếp ảnh" do Trịnh Lữ dịch. Một quyển sách mà mọi người yêu nhiếp ảnh hay chỉ thích xem ảnh cũng nên đọc. Và bài tiểu luận "Chống diễn giải" này mình cho rằng với những người nào muốn thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật, hay luôn trăn trở về việc để "hiểu" nghệ thuật thì cũng nên đọc. Vừa để c
LTS: Bài viết sau của cụ bà Đinh Thanh Trang kể về một số kinh nghiệm dùng thuốc Nam, thuốc ta chữa bệnh sau khi bệnh viện và thuốc Tây bế tắc
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.