Hôm nay,  

“Túp Lều Của Chú Tom” Và Một “Chú Tom” Có Thật Ở Trên Đời

16/08/202400:00:00(Xem: 1634)

uncle-tom cover
Vài tuần sau khi Harriet Beecher Stowe gặp John Andrew Jackson, bà bắt đầu phác thảo Túp Lều của Chú Tom.
 
John Andrew Jackson vừa chào đời đã mang phận nô lệ, và được định sẵn là sẽ dành trọn kiếp sống tủi nhục trên những cánh đồng bông vải ở Nam Carolina.
 
Nhưng, không cúi đầu trước số phận, Jackson đã thoát khỏi cảnh nô dịch, trở thành một diễn giả và văn nhân có ảnh hưởng lớn đến phong trào bãi nô. Ông cũng là nguồn cảm hứng cho tác phẩm kinh điển Uncle Tom's Cabin (Túp Lều của Chú Tom) của Harriet Beecher Stowe, xuất bản năm 1852. Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng về chế độ nô lệ này được nhiều sử gia đánh giá là đã góp phần thúc đẩy cuộc Nội chiến của Hoa Kỳ.
 
Susanna Ashton, giáo sư Anh ngữ từ Đại học Clemson, là một học giả nghiên cứu về những phận đời nô lệ và các tác phẩm của họ. Bà đã dành nhiều năm để nghiên cứu về Jackson và thấy khó hiểu về việc ông ít được nhắc đến trong hầu hết các tài liệu lịch sử về chế độ nô lệ ở Hoa Kỳ.
 
Cuốn tiểu sử về Jackson của giáo sư Ashton, có tựa đề là “A Plausible Man: The True Story of the Escaped Slave Who Inspired Uncle Tom’s Cabin” (xin tạm dịch là “Người Thật, Việc Thật: Chuyện Người Nô Lệ Khơi Nguồn Cảm Hứng Cho Túp Lều Của Chú Tom”) sẽ kể về cuộc đời đầy sóng gió mà cũng đáng kinh ngạc của một “chú Tom” trong đời thực.
 
Hướng về phía bắc tự do 
 
uncle-tom
Nghiên cứu mới làm sáng tỏ John Andrew Jackson, người đã tìm kiếm sự giúp đỡ từ Harriet Beecher Stowe trong quá trình trốn thoát khỏi chế độ nô lệ vào khoảng năm 1825.  Nguồn: Wikimedia Commons
 
Vợ và con gái của Jackson cũng là nô lệ, nhưng thuộc sở hữu của một chủ đồn điền khác. Năm 1846, họ bị buộc phải chuyển đến Georgia cùng chủ nô. Đau khổ và phẫn nộ trước cảnh gia đình ly tán, ông quyết tâm kiếm tiền để mua lấy tự do cho gia đình mình. Vì vậy, Jackson có một kế hoạch liều lĩnh và táo bạo: chờ đến ngày Giáng Sinh, dùng ngựa để trốn đi. Sau đó, ông tìm được việc làm tại bến tàu ở Charleston, Nam Carolina, và cuối cùng núp trên một con tàu chở bông vải hướng đến Boston.
 
Sau khi đến Boston, Jackson bắt đầu tham gia diễn thuyết trong các cuộc hội họp của phong trào bãi nô trên khắp Massachusetts nhằm quyên tiền để mua tự do cho vợ con. Nhưng trước khi Jackson quyên đủ tiền, Tổng thống Millard Fillmore đã ký ban hành Đạo luật Fugitive Slave Act (Luật xử phạt nô lệ tẩu thoát) năm 1850, quy định phạt nặng những người giúp nô lệ tẩu tán.
 
Dù đang sống ở một tiểu bang được coi là tự do, Jackson vẫn có nguy cơ bị bắt đưa trở lại làm nô lệ. Ông quyết định chạy sang Canada, và được chỉ dẫn đến với những gia đình ủng hộ chủ nghĩa bãi nô tại Maine để được giúp đỡ.
 
Cuộc gặp gỡ tình cờ
 
Một trong những gia đình mà Jackson đã tìm đến là nhà của Thomas C. Upham, một triết gia tại Bowdoin College, nghiên cứu cả về tâm trí con người lẫn các vấn đề đạo đức.
 
Upham từng cho rằng dù chế độ nô lệ có sai trái thế nào thì Đạo luật Fugitive Slave Act vẫn là luật và cần phải được tuân thủ. Tuy nhiên, khi Jackson đến gõ cửa, Upham đã gạt bỏ nguyên tắc của mình, mời Jackson vào nhà, ăn uống và động viên. Vì không thể để Jackson tá túc lại qua đêm, Upham đành phải dẫn Jackson sang nhà hàng xóm của mình, tên là Harriet Beecher Stowe.
 
Stowe vừa là hàng xóm vừa là bạn bè của Upham, và vẫn luôn buồn lòng với sự thiếu quyết đoán trong quan điểm về chính trị của người bạn giáo sư tốt bụng này.
 
Vào thời điểm đó, Harriet Beecher Stowe là một nhà văn chưa có danh tiếng, chồng bà là một nhà thần học và là học giả tại Bowdoin College. Khi Jackson đến nhà Stowe, bà cũng đã phạm luật, mở rộng cửa chào đón người nô lệ trốn chạy. Jackson tá túc lại đó một đêm; chơi đùa với các con của Stowe; kể về chuyện đời bất hạnh của mình; và rời đi vào sáng sớm hôm sau với đồ tiếp tế mà bà gửi tặng.
 
Mặc dù Stowe không bao giờ nhắc đến tên của Jackson, nhưng bà từng viết về sự việc này và ghi chú rằng vị khách của bà là “một người có thật đến từ ‘Ole Carliny State’” – ám chỉ đến bài hát phổ biến mà sau này Jackson đã đưa vào hồi ký của mình.
 
“Người phụ nữ nhỏ bé”
 
Vài tuần sau lần gặp đó, Stowe bắt đầu viết tiểu thuyết “Túp Lều Của Chú Tom.
 
Trong tiểu thuyết, có một cảnh quen thuộc mà nhân vật nữ chính, Eliza, một nô lệ da đen đang trốn chạy, gõ cửa nhà của một TNS Hoa Kỳ. Vị TNS này trước đó đã hứa sẽ tuân thủ luật xử phạt nô lệ tẩu thoát. Tuy nhiên, khi một người đang sợ hãi và tuyệt vọng xuất hiện trước cửa nhà, TNS đã nghe theo con tim thay vì lý trí. Và rồi vợ chồng TNS đã bất chấp vi phạm luật để giúp đỡ Eliza. Cảnh này là một sự tái hiện lại cuộc gặp gỡ giữa Upham và Jackson ngoài đời thực.
 
Dù vậy, sự sáng tạo nghệ thuật luôn được ươm mầm bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, và quá trình sáng tác của Stowe chắc chắn cũng lấy cảm hứng từ nhiều con người và sự việc khác nhau, bên cạnh cuộc gặp gỡ với Jackson – điều đã thúc đẩy Stowe quyết định có hành động trực tiếp và cụ thể hơn thay vì chỉ tranh luận khi bàn về chủ đề nô lệ.
 
Được xuất bản vào năm 1852, “Túp Lều Của Chú Tom” đã thúc đẩy phong trào bãi nô bùng lên mạnh mẽ, và trở thành cuốn sách bán chạy thứ hai ở Hoa Kỳ trong thế kỷ 19, chỉ đứng sau Kinh Thánh.
 
Một thập niên sau, khi Stowe đến thăm Tòa Bạch Ốc vào tháng 11/1862, người ta kể rằng Tổng thống Abraham Lincoln đã nói với bà rằng, “Vậy, quý bà chính là người phụ nữ nhỏ bé đã viết ra cuốn sách khởi đầu cho cuộc chiến vĩ đại này.
 
Một đời trốn chạy
 
Trong thời gian Stowe sáng tác “Túp Lều Của Chú Tom,” Jackson phải trốn từ Hoa Kỳ sang Canada. Ông rời khỏi Maine và đến sống ở St. John, New Brunswick, trong vài năm. Với mong muốn mở rộng ảnh hưởng của phong trào bãi nô, ông quyết định rời Canada đến Liverpool, Anh, mang theo một lá thư giới thiệu do chính Harriet Beecher Stowe viết.
 
Trong suốt mười năm sau đó, Jackson đã đi diễn thuyết trên khắp Vương quốc Anh và viết cuốn hồi ký “The Experience of a Slave in South Carolina” được ra mắt độc giả vào năm 1862. Trong hồi ký, ông kể về cuộc gặp gỡ với Stowe:
 
Trong hành trình trốn chạy từ Salem đến Canada, tôi gặp được một vị bằng hữu rất tốt bụng và chân thành, cho tôi có chỗ tá túc qua đêm và giúp tôi có hành trang để lên đường. Tên của vị bằng hữu ấy là Mrs. Beecher Stowe. Bà đã cho tôi vào nhà, cho tôi ăn uống, quần áo cùng với 5 đô la. Bà cũng xem qua cái lưng đầy sẹo này, những vết sẹo sẽ đi theo tôi cho đến cuối đời.
 
Năm 1865, sau khi Nội chiến Hoa Kỳ kết thúc, Jackson quay trở về với quê hương cố thổ, tiếp tục diễn thuyết và quyên góp tiền, nhưng lần này là dùng để cứu trợ cho những mảnh đời kham khổ ở Nam Carolina, họ đã thoát khỏi chế độ nô lệ nhưng vẫn đang sống trong nghèo đói, khó khăn. Ông cũng đã cố gắng quyên góp tiền để xây một trại trẻ mồ côi, một nhà thờ và một chốn nương tựa cho những cụ cao niên gốc da đen đang sống neo đơn không ai chăm sóc.
 
Mặc dù rất ít dự án trong số đó thực sự hoàn thành, nhưng những nỗ lực không ngừng nghỉ của Jackson vẫn được ghi nhận qua báo chí và các thư từ với các viên chức của chính quyền.
 
Jackson qua đời vào những năm đầu thế kỷ 20. Trước khi mất, ông đã trở thành một huyền thoại trong cộng đồng người da đen với những việc làm cao cả của mình. Một người hàng xóm của Jackson kể về ông với sự kính trọng và ngưỡng mộ. Vào những năm 1930, khi được phỏng vấn và hỏi về Jackson, Jake McLeod, một cụ nông dân gốc da đen, trả lời: “Tôi không rõ lý do tại sao ông ấy phải bỏ trốn, nhưng đám người truy đuổi chẳng thể nào bắt được ông ấy.
 
Cung Đô biên dịch
Nguồn: “The Black fugitive who inspired ‘Uncle Tom’s Cabin’ and the end of US slavery” được đăng trên trang Smithsonianmag.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4/75, 50 năm trôi qua, đã có không biết bao nhiêu sách vở nói về cái ngày bi thương đó của dân tộc Việt Nam, nhưng có lẽ không gì trung thực và sống động cho bằng chính những bản tường trình trên báo chí vào đúng thời điểm đó từ những phóng viên chiến trường tận mắt chứng kiến thảm cảnh chưa từng có bao giờ của hàng trăm ngàn người, dân cũng như quân, liều mình xông vào cõi chết để tìm cái sống. Năm 2025, đánh dấu 50 năm biến động lịch sử đó, Việt Báo hân hạnh được đăng tải loạt bài viết của ký giả Đinh Từ Thức ghi lại chi tiết từng ngày, đôi khi từng giờ, những điều xảy ra trong mấy tuần lễ trước và sau ngày 30/4/75 để chúng ta có cơ hội cùng sống lại những giờ khắc bi thảm và kinh hoàng ấy đã xảy ra như thế nào.
Năm Carlton Terry 12 tuổi, hệ thống trường học tại Quận Prince Edward, bang Virginia, bất ngờ đóng cửa đối với tất cả trẻ em người da đen. Nhớ lại năm đầu tiên ấy, ông kể: “Tất cả những gì tôi biết là tôi không được đến trường, và tôi biết lý do tại sao. Tôi nhận ra rằng hệ thống pháp luật được tạo ra không phải để bảo vệ tôi. Tôi nhớ những ngày ngồi nhà, sững sờ trước màn hình TV, xem chương trình Amos ’n’ Andy. Mỗi ngày, tôi đọc báo để xem liệu có gì thay đổi hay không.”
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.