Hôm nay,  

LÁ THƠ TẾT MIỆT VƯỜN

28/02/201300:00:00(Xem: 3454)
Trong số độc giả Việt Báo, nhiều người cao hứng gởi bài mà khỏi cậy đăng, kêu bằng chia sẻ ân tình với người khác. Lá thơ về miệt vườn này rất đáng đọc, để nhớ lại một phần quê hương đã xa....

Chú Tư thân mến,
Hổm rầy tuần trước được cô Chín Cúc xóm mình gởi cho tui một bức thơ của chú cùng mấy tấm hình chụp chú thím với sấp nhỏ đứng trước nhà mà tôi buồn ngẩn ngơ hết mấy ngày đó. Như vậy là tui xa gia đình, xa quê hương cũng xấp xỉ hai chục năm rồi chú à. Cô Chín cũng tệ thì thôi, về thăm gia đình mà không cho tui hay biết, để tui ít nhiều giúp chú thím, cho mấy sấp nhỏ ăn bánh. Làm bà nhà tui cằn nhằn hoài, nhứt là khi bả nghe cô Chín cổ nói chú thím có gởi cho tụi tui một bó khô hố để nhậu mà cổ không dám đem về, sợ quan thuế nó phạt. Cái xứ này nó kỳ lắm chú thím à, nó không như xứ mình, nên mình mà sớ rớ không biết luật lệ là đi tù như trở bàn tay.

Ai đời bà Ba Nhỏ ở đầu xóm mình khi xưa, có con dâu nó bị cảm, bả đè nó ra bả cạo gió, bị cháu nội bả vô trường nói với cô giáo cái gì không biết mà chiều hôm đó cảnh sát tới gõ cửa nhà đòi bắt vì hành hạ con dâu mang thương tích. Thời may, con nó bịnh ở nhà, nên nó nói chuyện với mấy ông cảnh sát, rồi họ bắt bả cạo gió thử cho họ coi họ mới tin.

Tui nghe nói bây giờ người mình qua đây nhiều nên người Mỹ họ cũng bắt đầu quen, chớ ngày xưa, lúc mới qua, ở cái tiểu bang nào đó, có một ông bị bắt vì cạo gió cho con, mà không nói làm sao cho họ hiểu được, làm ổng muốn khùng trong nhà giam!

Thôi, nói chuyện tầm xàm tầm đế bên này sợ chú thím nhàm tai. Lúc này gần Tết rồi chú thím à, mà sao gần Tết tui đâm ra nhớ xứ sở quê quán, bà con dòng họ lớn nhỏ nhà mình ớn! Hỏng biết chú Tư còn nhớ một cái Tết cách đây cũng bốn chục năm, hai anh em mình nghe lời anh Bảy Nghệ, theo ghe bầu của ảnh đi giang hồ xuống Cà Mau rồi lộn lên tới tận Bình Thủy Cần Thơ không? Lúc đó tui 28, còn chú Tư mày mới 24. Anh em tụi mình còn trẻ, khoẻ mạnh như con trâu cui. Có lẽ vì vậy nên anh Bảy ảnh mới mướn tụi mình làm bạn ghe đó chú.

Tui còn nhớ hôm mùng hai Tết, anh em mình theo anh Bảy xuống xóm lò nhang Cà Mau coi đá gà, chút nữa thì anh em mình bị mấy anh chị xóm lò nhang xẻ thịt làm khô rồi. Anh em mình thì khờ trân, có coi đá gà, nhưng đâu có biết người ta đá gà ăn tiền, tưởng đá gà "văn nghệ" như ở xóm Vàm Cỏ Chiên của mình. Khổ cái anh Bảy ảnh biết mà không nói cho mình để chuyện nó xảy ra như vậy.

Tui còn nhớ rõ ràng độ gà đó, hai con gà nòi cổ cao cả gang tay, cựa vót nhọn lểu, thấy mà ớn. Người ta đánh cá bằng cách quơ tay ra hiệu mà anh em mình đâu biết. Cây nhang đốt lên, hai con gà được chủ cho nước rồi thả vô "trường". Cũng may là tui bắt một con, còn Chú Tư mày bắt con kia. Chớ rủi hai anh em mình mà bắt một bên, thì một là mình giàu, hai là mình bị họ đánh cho một trận sặc máu mũi, máu mồm vì không có tiền chung. Lúc gà đá, anh em tụi mình cũng hăng máu, múa tay múa chưng tùm lum tá la, dè đâu người "tằng khậu" (người làm kế toán tiền đánh cá) họ tưởng mình cá, nên họ ghi vô sổ.
huynh-mau-cao_1
Chung cuộc thì con gà tui bắt bị con gà của chú ghim một cựa vô yết hầu dãy đành đạch chết ngay tại trận. Lúc họ bắt tôi nạp tiền, tôi như trên trời rớt xuống, còn cái anh tằng khậu sao dữ quá, ảnh ngó tui thiếu điều muốn ăn tươi nuốt sống tui. May mà nhờ chú lanh, hỏi ổng là chú ăn bao nhiêu, khi ổng nói ra thì mới biết là hai anh em mình đứa ăn, đứa thua bằng nhau, nên chú nói gạt tiền của tui qua bên chú thành ra huề, tui mới thoát nạn!

Tui cứ nhớ trận gà này hoài, rồi tui nói chú Tư mày lanh hơn tui nhiều. Chú mà được qua bên này chắc chú thành công hơn thằng anh Hai của chú.

Thời may anh Bảy trận đó cũng ăn bộn, nên ảnh chơi "sên non" (ăn non, lời chú thích của toà soạn), với lại bị cái vụ đánh cá đó tui cũng sợ hốt hồn, nên không còn lòng dạ nào mà coi nữa. Chiều hôm đó, anh Bảy ảnh đãi anh em mình lên chợ ăn cơm, chớ không ăn trên ghe. Có canh nấm tràm nấu cá rô mề, cá kèo nướng dầm nước mắm có bầm xoài sống, ăn với dưa gang thái nhỏ, bóp sổi. Trời ơi, sao mà nó ngon thấu trời à nghe chú Tư.

Nấm tràm đắng, chấm vô nước mắm sống giằm ớt thiệt cay, nó vừa đắng, vừa mặn vừa cay, ăn vô thiệt là ngậm mà nghe, chớ hổng dám nuốt đó chú Tư. Chưa kể là ăn nấm tràm rồi, uống nước lã nó cũng ngọt như mình uống xá-xị vậy.

Còn dưa gang bóp sổi, chấm nước mấm có xoài sống, thêm mấy cọng rau răm, nghe sao như cái tình quê hương nó chảy rần rần trong gân máu mình vậy đó. Tui ước ao làm sao trước khi tui chết, tui được ăn lợi hai cái món đó, chớ không e rằng chết không nhắm mắt đó chú Tư à.

Hổng biết anh Bảy ảnh coi lịch ở đâu đó mà nói là ngày mùng bốn xấu ngày, nên mùng ba mình nhổ sào đi Phụng Hiệp. Từ Cà Mau đi Phụng Hiệp nhắm mắt đi cũng tới. Thằng Tư mày nhớ hông? Con kinh đó nó thẳng băng như ruột ngựa, mà sao nước nó trong quá vậy không biết. Đứng trên mui ghe còn ngó thấy ràng ràng mấy con cálìm kìm nó lội dưới nước. Nước thì trong mà uống sao chát ngắt! Anh Bảy ảnh nói nước kinh toàn là phèn không, nên muốn uống, phải đổ vô lu, để mấy ngày cho nó lắng phèn mới uống đuợc. Hèn chi mà mình tắm xong, da đứa nào đứa nấy móc thích móc cời, coi vừa dị hợm, vừa bầy hầy hổng giống con giáp nào hết.

Còn hai bên con kinh, bên mấy cái ruộng lúa, thì vịt ơi là vịt.

Người ta nuôi vịt mà dám thả nó đi như vậy tui cũng không hiểu làm sao họ lùa gom lũ nó lại đuợc. Mà sao chúng dạn quá trời. Tui nhớ có mấy con nó lịu địu theo ghe ăn cơm thiu chị Tư bếp đổ xuống bên hông ghe, tui lấy sào đẩy tụi nó ra mà nó cứ a thần phù sáp vô. Tui muốn đập vài con lên nấu cháo vịt nhậu chơi mà anh Bảy ảnh hổng cho. Nói làm như vậy, chủ vịt họ biết được mất lòng mất bề. Năn nỉ hoài mà ảnh hổng đổi ý, nên tui đành chịu thua.

Anh Bảy coi vậy mà đối với hai anh em mình thiệt tốt. Lúc đổ hàng xuống Phụng Hiệp để chủ chở xuống Sóc Trăng, ảnh được lời khá khẳm. Mà lời ít hay lời nhiều ảnh đều nói cho tui nghe, chứ hổng có giấu giếm như mấy chủ ghe kia. Tối ó, hổng biết chú Tư nó còn nhớ không, ảnh đãi cả ghe một bữa đầu cá hấp Phụng Hiệp.

Thiệt ra thì cũng nhờ chị Tư bếp chỉ có ý kiến thiệt hay, là chỉ sợ ăn ở quán mắc, nên xúi anh Bảy mua đầu cá hấp với mắm nêm thôi, còn rau cỏ, bánh tráng và đồ phụ tùng chỉ đi chợ mua, nên cả ghe được ăn một bữa đã điếu, không mắc tiền mà ngồi trên mui ghe ăn, có gió mát, có trăng thanh, lại rộng rãi, mình muốn ăn muốn nói sao cũng được, không sợ phiền người khác, nên sướng hơn ăn trong tiệm nhiều.

Đêm hôm đó tui nhậu quắc cần câu luôn.

Đi chuyến này coi vậy mà anh em mình học được nhiều điều hay. Lúc anh Bảy quá giang theo chủ hàng từ Cần Thơ lên chở hàng về, ảnh cũng kéo tụi mình đi Cần Thơ với ảnh. Mình cũng hên là mấy người thợ khiêng hàng của chủ tiệm bịnh hoạn sao đó, nên họ nhờ mình đổ hàng xuống kho cho họ. Hai anh em mình phải cực khổ một ngày trời, nhưng túi tiền của mình thì coi bộ nặng bộn. Hổng biết anh Bảy ảnh nói cái gì với chủ tiệm mà tối hôm đó, họ mời anh Bảy ăn cơm mà lại cho cả hai anh em mình cặp tàu.
huynh-mau-cao_2
Tui còn nhớ hình như cái tiệm chuyên môn bán rùa đó tên là Vĩnh Ký. Nó sang trọng quá trời. Hổng nhờ anh Bảy thì biết đời thuở nào mình mới được vô ngồi ăn trong cái tiệm sang trọng như vầy. Rùa thì mình có ăn rồi, nhưng anh em mình mới có ăn món cháo rùa, chớ chưa từng biết món rùa rang múi. Ở đây họ làm thiệt là nhiều món bằng thịt rùa. Nào là rùa xé phai, rùa rang múi, rùa rô ti, rùa nấu vi cá, rùa khìa, rùa nấu thuốc Bắc... món nào nghe cũng bắt chảy nước miếng hết.

Tui còn nhớ đồ ăn lạ miệng hôm đó tui ăn hết mấy tô cơm, nhưng ông chủ với anh Bảy thì chỉ ăn vã đồ ăn không, thiệt là uổng tiền hé chú Tư.

Buổi trưa hôm sau, anh Bảy bận việc nên hai anh em mình ra chợ lồng ăn cơm một mình với nhau. Chú Tư mầy còn nhớ không, trên đường vô chợ mình thấy người ta treo ê hề những con chuột đồng đã được lột da, mới thấy tưởng thịt thỏ. Tui nhớ vì tụi mình hà tiện nên kêu có một tô canh chua đầu cá lóc, với một dĩa dưa mắm. Chèn ơi, cái đầu cá lóc họ làm sao mà nó trắng nõn trắng nần. Cái mang họ cạo làm sao mà nó sạch trơn, gậm đã quá hả chú Tư?

Còn dưa mắm họ làm bằng dưa gang, không sắt nhỏ ra mà để nguyên miếng cho mình vừa cắn, vừa và cơm, nó trong như miếng cẩm thạch, còn cái màu nó thì mới ngó tựa như một miếng Hán ngọc đời xưa. Mới ngó đã sướng con mắt. Lúc cắn cái "bụp" vô miếng dưa mình mới thấy cái vị mặn pha một chút ngọt dịu của nó, vừa đúng với một và cơm, hổng mặn quá, mà cũng hổng lạt quá. Sao mà đồ ăn của quê hương mình nó ngon quá vậy hả chú Tư?

Người văn minh trên thành thị họ ca tụng mấy món đồ ăn ngoại quốc vừa đẹp, vừa thơm vừa ngon, mà cũng vừa... mắc tiền. Chớ tui đố có món nào vừa đẹp, vừa ngon, vừa thơm, vừa rẻ tiền như miếng dưa gang ngâm mắm của quê mình.

Tôi tưởng tượng trong lúc nằm đó hấp hối, mà có ai để trên lỗ mũi của tui một miếng dưa gang ngâm mắm, chắc mình cũng nhổm dậy, làm một chén cơm nguội với dưa gang, rồi có đi chầu ông bà ông vải thì đi sau. Chớ không cách chi có thể bỏ qua cái món "vưu vật" đó của xứ mình được.

Chiều hôm đó, hai anh em mình được anh Bảy rủ ra bến Ninh Kiều ăn hột vịt lộn với cháo lòng, có lẽ ảnh muốn trả công mình đã xuống hàng rồi chất lên xe giùm ảnh. Gió thổi lộng lộng mát thất kinh, cùng với mấy cô bán đồ ăn liếc mắt đưa tình làm anh Bảy nhậu gần quắc cần câu luôn.

Tối đó, anh em mình ngủ trên xe để giữ hàng, chớ anh Bảy đi đâu mình hổng biết, nhưng ảnh có biểu anh em mình nếu vìa nhà chị Bảy có hỏi, thì nói ảnh ngủ trên xe với hai anh em mình.

Tui nhớ chuyện mình hồi nhỏ rồi viết lung tung, không ngờ thơ dài quá mạng. Vợ chồng tụi tui gởi lời thăm vợ chồng chú thím, với sấp nhỏ được mạnh khoẻ, chúc chú thím năm mới "vạn sự như ý, nhất bổn vạn lợi". Chú thím cho tôi đạt lời thăm hết thảy bà con chòm xóm, kẻ lớn người nhỏ.

Anh của chú thím,Hai Cao kính thơ.

TB: Có chuyện này tui muốn nói với chú thím Tư mà rồi quên hoài. Giỗ quảy ông bà, cha mẹ, tụi tui cũng cúng hàng năm, đúng ngày. Có điều đồ ăn bên này nó không giống như bên mình, sợ ông bà không bằng lòng. Như Má khoái ăn canh chua bông sua đũa, mà bên này làm sao mà có được cây sua đũa hòng lấy bông? Cũng như Tía thích canh chua cá mòi nấu lá vang, thì bên này, nói xin lỗi chú thím, chớ mụ Nội tôi cũng kiếm không ra thứ cá mòi bụng đầy mỡ như cá mòi sông Vàm Cỏ của mình, chớ đừng nói tới lá vang. Còn Nội lúc còn sống thì những bữa trưa nóng nực, Nội khoái húp một chén mủ Trôm, mà mủ cây Trôm thì nhiều chỗ trên xứ mình cũng tìm đỏ mắt hổng ra, nói gì bên cái xứ Huê Kỳ này. Vậy anh Hai xin chú thím nhớ cúng ông bà giùm anh, bằng đúng mấy món họ ưa ăn khi sống, thì tui cám ơn chú thím vô vàn.

* Có nhiều chữ cố ý viết sai chính tả để diễn lại lối viết và nói thông dụng của đồng bào miền Nam chúng ta và cũng để giữ "màu sắc địa phương" (couleur locale). Xin quý độc giả thông cảm và mấy ông chủ biên chủ bút đừng có sửa nha. Tội lắm!

Huỳnh Mậu Cao

Nhấn Vào Đây Để Tải Tập Tin PDF
THẦN THOẠI RẮN

HUỲNH KIM QUANG

Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn.

Vốn là vùng rừng núi bạt ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng mà là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.

Trong số rắn độc lấy mạng nhiều thổ dân Dravidian nhất là loài mãng xà hung bạo. Chúng không những ở trên mặt đất mà còn ở dưới nước của sông, suối, khe, lạch, ao, mương. Người Dravidian còn cho rằng loài mãng xà có khả năng gọi mưa, thổi gió để trừng phạt con người. Thổ dân sợ loài rắn đó lắm. Họ không biết làm sao để đối phó hay trốn tránh chúng. Họ chỉ biết cầu nguyện. Và rồi họ nghĩ rằng cách hữu hiệu nhất là lập đền thờ rắn để cầu khẩn thần rắn tha mạng cho họ. Thần Nàga xuất hiện từ đó. Nàga không đơn giản là tên gọi một loài rắn bình thường mà còn biểu đạt sức mạnh siêu nhiên của thần linh có khả năng tàn hại hay cứu mạng con người. Huyền thoại Ấn Độ cổ thời cho rằng Thần Brahma rất sủng ái và tin tưởng hoàng tử rắn là Sesha nên giao nhiệm vụ cưu mang và bảo hộ thế giới cho hắn.

Không những thế, huyền sử cổ thời của các dân tộc khác cũng có tục thờ thần rắn, như tại vùng sông Nile của Ai Cập, vùng lưỡng hà của Ba Tư, hay tại lãnh địa của dân tộc Cam Bốt, v.v… Đặc biệt tại Trung Quốc nàga đã hóa thân thành rồng với sắc thái đặc dị và linh thiêng mà các vị vua Trung Quốc đều lấy đó làm biểu tượng cho vương triều của họ. Rồng Trung Quốc về hình thức thì có khác với thần rắn Nàga của Ấn Độ nhưng về đặc tính siêu nhiên và thần thoại thì không khác mấy.

Sử thi Mahabharata (xuất hiện vào thế kỷ thứ 9 trước tây lịch) của Ấn Độ kể chuyện làm sao rắn và diều hâu trở thành kẻ thù truyền kiếp để từ đó xảy ra các cuộc thiêu sống loài rắn. Chuyện kể rằng, ngày xưa vua diều hâu Garuda và rắn Nàga vốn là anh em họ. Nhưng đến đời thánh Kasyapa thì chuyện lục đục giữa hai nhà bắt đầu phát sinh. Lý do là vì ông thánh Kasyapa này có tới 13 bà vợ. Một trong 13 bà vợ đó có 2 bà tên là Kadru và Vinata. Kadru muốn có nhiều con, ngược lại Vinata thì chỉ muốn có ít con nhưng đứa nào cũng phải đầy quyền lực. Rồi thì cuối cùng cả hai bà đều được toại nguyện. Kadru đẻ ra một ngàn con rắn, và Vinata đẻ hai người con mà một người là Surya, thần mặt trời và người con kia là Garuda, con chim diều hâu mang nửa cốt người nửa cốt chim mà thần Vishnu thường cỡi trên lưng bay đi. Trong một cuộc đánh cá mà cổ thi gọi là ngu xuẩn, Vinata bị bắt làm nô lệ cho chị mình là Kadru. Nhưng oái ăm thay, nợ mẹ mà con phải gánh. Do đó, Garuda là con của Vinata đã bị buộc làm theo mệnh lệnh của rắn. Garuda bực tức và đã thề rằng không bao giờ buông tha. Khi Garuda hỏi con rằn làm sao để cứu được mẹ, Vinata bảo Garuda phải mang linh đơn, thần dược bất tử tới. Garuda bèn ăn cắp thần dược từ vị thần và mang tới cho các con rắn để hoàn thành yêu cầu của chúng, nhưng những con rắn đã không thực hiện lời hứa. Từ đó về sau, Garuda xem những con rắn là kẻ thù và bắt để ăn.

Trong cuộc cá độ, để giành phần thắng, Kadru, thủy tổ của rắn, yêu cầu con cháu bà phải tìm mọi cách để cho bà thắng. Nhưng con cháu rắn của bà đã không chịu làm thế, cho nên Kadru nổi giận và thề bắt chúng phải bị chết thiêu trong lễ tế rắn của Vua Janamejaya. Vua Janamejaya sinh ra mang theo mối hận vua cha bị rắn giết nên thề không đội trời chung với loài rắn. Do vậy ông thực hiện lễ thiêu sống rắn gọi là Sarpa Satra. Các cuộc tế lễ thiêu sống rắn được thực hiện bên bờ sông Arind tại Bardan, ngày nay là Parham. Và ngôi đền do Vua Janamejaya xây lên để tế sống rắn ngày nay vẫn còn tại vùng Mainpuri, ở Ấn Độ. Sau đó vị vua rắn Vasuki tỉnh thức trước lời thề và biết rằng những anh em của ông phải cần đến một vị anh hùng để giải cứu. Vasuki bèn đến vị đạo sĩ Jaratkaru với đề nghị kết hôn với nữ thần rắn là Manasa, chính là em gái của Vasuki. Cặp vợ chồng đạo sĩ Jaratkaru và nữ thần rắn Manasa sinh ra người con trai Astika chính là cứu tinh của rắn. Astika đến khuyên can Vua Janamejaya để chấm dứt cuộc tàn sát loài rắn và Vua Janamejaya làm theo.

Khi văn hóa Ấn Độ lan truyền sang vùng Đông Nam Á vào thế kỷ thứ 3 trước tây lịch đi theo đó là làn sóng truyền bá của Bà La Môn Giáo hay Ấn Độ Giáo. Trong số những quốc gia vùng Đông Nam Á hấp thụ nền văn hóa Bà La Môn của Ấn Độ sâu đậm và lâu dài nhất là Cam Bốt.

Rắn Nàga của Ấn Độ khi đến Cam Bốt đã hóa thân thành người. Huyền thoại này kể rằng, người con gái của Vua Rắn Nàga trong một tình cờ đã gặp được chàng thanh niên giòng dõi Bà La Môn của Ấn Độ có tên là Kaundinya. Hai người yêu nhau và lấy nhau, rồi sau đó sinh ra những người con để tạo thành dân tộc Cam Bốt tồn tại cho đến ngày nay. Trong nền văn hóa Cam Bốt, Rắn Nàga được tạc thành tượng 7 đầu để thờ trong các đền thờ như Đền Đế Thiên Đế Thích. Theo văn hóa Cam Bốt, 7 đầu tượng trưng cho 7 màu của cầu vòng. Người Cam Bốt còn giải thích Rắn Nàga có số đầu lẻ tượng trưng cho phái nam với năng lực, vô hạn, vô biên, và bất tử. Rắn Nàga có số đầu chẵn tượng trưng cho nữ giới với thể lực, hữu hạn, tạm bợ và trái đất.

Dân tộc Thái Lan và Lào cũng tôn thờ thần rắn nàga vì họ cho rằng thần rắn nàga là chúa tể cai quản dòng sông Mekong. Hàng năm người dân Thái Lan và Lào đều tổ chức lễ cúng tế thần rắn nàga. Người dân Thái và Lào sống dọc theo sông Mekong tin rằng cúng tế thần rắn nàga sẽ được thần rắn bảo hộ tai qua nạn khỏi lúc làm ăn trên sông, trên nước. Mỗi năm vào ngày 15 tháng 11 theo lịch Lào, một buổi lễ cúng tế thần rắn nàga được tổ chức trọng thể tại quận Phonephisai thuộc tỉnh Nong Khai của Thái Lan với pháp bông rực rỡ vào ban đêm.

Rắn nàga hóa thành người ở Cam Bốt và được tôn làm thần linh ở Ấn Độ, Thái Lan, Lào là huyền thoại đầy bí nhiệm, nhưng vẫn chưa bằng huyền thoại rắn nàga thành Phật trong kinh Phật. Tuy nhiên, trước khi kể chuyện rắn nàga thành Phật, xin kể về chuyện rắn nàga giữ kinh Phật ở thủy cung hay long cung.

Chuyện là thế này, lịch sử Phật Giáo Ấn Độ có một nhân vật mà sau này được tôn xưng là đệ nhị Thích Ca, tức là chỉ đứng sau đức Phật Thích Ca mà thôi. Nhân vật đó là Bồ Tát Nàgarjuna (xuất hiện vào thế kỷ 2 sau tây lịch tại miền nam Ấn Độ) mà các nhà Phật học Trung Quốc dịch là Long Thọ. Bản thân của ngài Long Thọ chứa đầy những huyền thoại ly kỳ mà cho đến nay các nhà sử học cũng không có cách lý giải. Ngài Long Thọ là người truyền bá tư tưởng Phật Giáo Đại Thừa mạnh mẽ và hữu hiệu nhất tại Ấn Độ đặc biệt là hệ thống giáo nghĩa về Bát Nhã Tánh Không. Chuyện kể rằng khi chưa xuất gia đầu Phật, ngài Long Thọ là người bác học tinh thông mọi thứ từ triết lý tư tưởng, tôn giáo đến y học, thuật số và phép tắc thần thông. Ngài đã từng chữa lành bệnh nan y cho nhiều người. Sau khi xuất gia ngài thông suốt khắp các kinh luận của những bộ phái Tiểu Thừa và biện tài vô ngại. Tiếng đồn thấu tới tận long cung của vua rắn Nàga. Vua rắn Nàga mới cho người thỉnh ngài Long Thọ xuống long cung để trao kinh Phật. Nguyên là khi đức Phật còn tại thế đã giao cho vua rắn cất giữ bộ Kinh Bát Nhã ở long cung chờ đến khi có đủ duyên và người xứng đáng để trao lại. Ngài Long Thọ xuống long cung và được vua rắn Nàga dẫn vào thư phòng chứa bộ Kinh Bát Nhã để giới thiệu. Ngài Long Thọ ở lại mấy tháng để đọc bộ Kinh Bát Nhã này và nằm lòng trong bụng. Sau khi trở về nhân gian, ngài Long Thọ chép lại Kinh bằng tiếng Phạn và viết nhiều bộ luận để xiển dương giáo lý Bát Nhã Tánh Không của Đại Thừa. Trong số các bộ luận do ngài Long Thọ sáng tác có nhiều bộ rất phổ biến và còn lưu truyền đến ngày nay như Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận, Đại Trí Độ Luận, v.v…

Bây giờ xin kể chuyện con gái của vua rắn nàga thành Phật. Chuyện này được kể trong Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa - Mahayana Saddharma Pundarika Sutra, phẩm Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) thứ 12 theo bản dịch Hán ngữ của ngài Cưu Ma La Thập - Kumàrajìva -- từ bản tiếng Phạn vào năm 406 sau tây lịch tại Trung Quốc. Bộ Kinh này cũng đã được dịch sang tiếng Việt bởi Hòa Thượng Thích Trí Quang và Hòa Thượng Thích Trí Tịnh. Bản dịch sau được phổ biến rộng rãi trong các Chùa Việt. Kinh kể rằng trong Hội Pháp Hoa, Bồ Tát Trí Tích hỏi Bồ Tát Văn Thù (Manjusri) lâu nay ở trong thủy cung của vua rắn đã độ được bao nhiêu con rắn. Bồ Tát Văn Thù nói rằng ngài đã thuyết Kinh Pháp Hoa và độ vô số chúng sinh trong loài rắn. Khi ngài Văn Thù nói như vậy thì có vô số bồ tát từ dưới biển vọt lên và đến núi Linh Thứu nơi đức Phật đang nói Kinh Pháp Hoa. Bồ Tát Trí Tích hỏi lại Bồ Tát Văn Thù rằng Kinh Pháp Hoa là vua trong các Kinh nội dung cao sâu vi diệu không phải ai cũng có căn cơ đủ để tu hành mà thành Phật mau được. Ngài Văn Thù liền kể rằng có người con gái của vua rắn ở long cung mới có 8 tuổi mà "căn tính lanh lẹ, có trí tuệ, khéo biết các căn tính hành nghiệp của chúng sinh, được pháp tổng trì, các tạng pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có thể thụ trì, sâu vào thiền định, rõ thấu các pháp. Trong khoảnh sát na phát tâm Bồ Đề được bậc bất thối chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sinh như con đỏ, công đức đầy đủ, lòng nghĩ miệng nói pháp nhiệm mầu rộng lớn, từ bi nhân đức khiêm nhường, ý chí hòa nhã, nàng ấy có thể đến bồ đề."

Khi ngài Văn Thù kể đến đó thì Bồ Tát Trí Tích không tin, vì ông phát biểu cảm nghĩ rằng đức Phật Thích Ca cũng đã trải qua vô lượng vô số kiếp tu hành khổ hạnh thì mới thành Phật được, lẽ nào một con rắn con mới có 8 tuổi lại có thể mau thành Phật như thế. Trong lúc Bồ Tát Trí Tích còn đang giải thích suy nghĩ của mình cho ngài Văn Thù nghe thì con gái của vua rắn hiện ra trước pháp hội đến đảnh lễ đức Phật và đứng qua một bên. Lúc bấy giờ ngài Xá Lợi Phất là đệ tử có trí tuệ đệ nhất của đức Phật Thích Ca còn nghi ngờ chuyện con gái vua rắn thành Phật nên hỏi người con gái của vua rắn rằng, việc đó có đúng như vậy chăng. Con gái vua rắn không nói gì mà đem hột minh châu đắt giá tặng cho đức Phật Thích Ca. Đức Phật tức thì hoan hỷ nhận hạt minh châu của cô bé con vua rắn. Cô bé rắn quay qua ngài Xá Lợi Phất và Trí Tích Bồ Tát hỏi rằng việc cô tặng hạt minh châu và Phật nhận có mau không? Cả hai vị đều nói là rất mau. Cô bé rắn giải thích với 2 vị này rằng việc cô thành Phật còn mau hơn nhiều. Và rồi cô bé con vua rắn tức thì biến thành thân con trai và bay qua cõi nước Vô Cấu ở phương nam, ngồi lên tòa sen và thành Phật với ba mươi hai tướng tốt không khác gì các đức Phật. Bồ Tát Trí Tích và ngài Xá Lợi Phất chỉ còn biết im lặng và tin là thật mà không nói được lời nào.

Truyền thuyết về con rồng cháu tiên của dân tộc Việt có phải cũng từ huyền thoại rắn nàga mà ra và người Việt Nam phải chăng cũng là con cháu của nhà rắn thần linh này? Dẫu sao thì dòng dõi Lạc Hồng cũng hơn các dân tộc khác ở chỗ có một nửa cốt cách là tiên.

Huỳnh Kim Quang

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
khúc sáng ở edina, minnesota với Q, C&J và bé Summer Grace
Đại hội 48-55 năm nay các bạn đồng khoá giao cho tôi công việc nhẹ nhàng gần như tượng trưng. Đó là đọc và nhặt lỗi chính tả những bài gửi đến. Vậy mà tôi chưa đọc được một bài, vì một vấn đề nguyên tắc: lấy tiêu chuẩn gì mà sửa chính tả của bạn bè.
Tác giả là một cựu không quân Việt gốc Hoa, hiện sống tại Đài Bắc. Bạn đồng khoá Nguyễn Viết Tân kể là năm Mậu Thân, Lý xếnh xáng 18 tuổi, từ Chợ lớn vào Tân Sơn Nhứt gia nhập KQ/ VN khoá 5/69CP. Sau 1975, người ta lo đi Tây đi Mỹ hà rầm, mà không biết cơ duyên nào đã đẩy đưa y ta tới Đài Loan làm nghề lái Taxi.
Tác giả là một cựu không quân Việt gốc Hoa, hiện sống tại Đài Bắc. Bạn đồng khoá Nguyễn Viết Tân kể là năm Mậu Thân, Lý xếnh xáng 18 tuổi, từ Chợ lớn vào Tân Sơn Nhứt gia nhập KQ/ VN khoá 5/69CP. Sau 1975, người ta lo đi Tây đi Mỹ hà rầm, mà không biết cơ duyên nào đã đẩy đưa y ta tới Đài Loan làm nghề lái Taxi.
Với “Hồi Ức Tháng Tư Của Long Mỹ,” cùng viết với người cháu là Hải Quân Trung Tá Paul LongMy Choate, Trương Kim Hoàng Thư đã nhận giải Vinh Danh Viết Về Nước Mỹ 2011. Là một kỹ sư điện, cô hiện làm việc tại DPW-LACO.
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn.
Anh ngồi co ro trên chiếc băng ghế ở trạm xe buýt. Nhiệt độ ngoài trời đang ở vào khoảng 20 độ F. Tuyết rơi suốt hai hôm nay vừa mới ngưng được một lúc. Gió thổi từng cơn làm lớp tuyết bám trên các tàng cây rơi vung vãi, cuốn những mảng bụi trắng xóa phủ xuống mặt đất và những mái nhà đứng kế bên.
Tôi đã gặp những người như thế. Những người như mộng, như thật. Những người đã tới để cho tôi thấy đời này như mộng, như thật. Họ tới để nói rằng cõi đời này là bất khả nghĩ bàn, nói mộng cũng hỏng, mà nói thật cũng sai.
Mừng Tuổi Con Tết đến rồi, mừng tuổi cho con gì đây?
Chú Sáu Steve Brown chính là "người Mỹ yêu tiếng Việt" mà tác giả Donna Nguyễn đã kể Chú Sáu." Báo xuân năm Thìn, khi nhắc tới tài làm thơ Việt của ông, Khôi An viết: "Tôi gọi ông là chú Sáu thay vì Mr. Steve Brown. Chú Sáu đã từng đóng quân ở Việt Nam, nơi đó chú đã gặp thím Sáu."
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.