Lụt Năm Quý Tỵ Chèo Thuyền Đi Chơi
Nhác mắt trông ra nước trắng bong,
Thuyền nan nhè nhẹ dạo chơi rong.
Tay chèo hứng gió chim bay mỏi,
Lưng mượn khuôn trăng cá vẫy vùng.
Bèo nổi lênh đênh đầu nội sạch,
Lúa chìm sâu thẳm cánh đồng không.
Ai ơi lo nghĩ làm chi nhọc,
Quý Tỵ chơi tràn khỏi luống công.
Chú thích:Năm Quý Tỵ 1893, đê Nhị Hà bị vỡ, nước lụt tràn ngập đồng bằng miền Bắc, mùa màng mất sạch làm nhiều người chết đói. Xin để ý đến khẩu khí của nhà thơ. An nhiên chịu đựng với vẻ ngang tàng. Không những ngang tàng an nhiên, ông còn chèo thuyền đi chơi trên nước lụt, và làm thơ về chuyện đó. Nhờ vậy, chúng ta mới mường tượng ra đời sống của người dân miền Bắc 120 năm về trước.
Vịnh Lụt Năm Tỵ
Tỵ trước, tỵ này, chục lẻ ba
Thuận dòng nước lũ lại bao la
Bóng thuyền thấp thoáng giờn trên vách
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà
Bắc bậc người còn chờ chúa đến
Đóng bè ta phải rước vua ra
Sửa sang việc nước cho yên ổn,
Trời đã sinh ta ắt có ta
Chú thích:Đúng một giáp sau trận lụt Quý Tỵ 1893, năm Ất Tỵ 1905 lại có một trận lụt nữa, thiệt hại còn lớn hơn. Nguyễn Khuyến viết bài này trong trận lụt năm tỵ thứ hai. Hai câu "luận" (5-6) có nghĩa là chủ nhà phải bắc thang leo lên cao để chờ người cứu và phải đặt bếp trên bè để thổi cơm. Vật nấu bếp được gọi là ông đầu rau, ông núc hay vua bếp.
Nước Lụt Hà Nam
Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi,
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi.
Gạo dăm ba bát cơ còn kém,
Thuế một vài nguyên dáng chửa đòi.
Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng,
Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi.
Đi đâu cũng thấy người ta nói:
Mười chín năm nay lại cát bồi.
Chú thích:Năm Canh Dần 1890, mưa lụt ở vùng Hà Nam đã phá vỡ quai đê của làng Mễ Tràng thuộc huyện Thanh Liêm. Vì vậy, nước sông Đáy tràn vào ruộng, phá hỏng mùa màng và gây ra trận đói. Quê hương của Nguyễn Khuyến là vùng Bình Lục cũng bị thiệt hại. Bài thơ này viết về trận lụt năm đó. Lũ lụt là một phần bình thường của cuộc sống ở miền Bắc, nhất là vào các năm Thìn, Tỵ. Ngày nay hiện đại hơn lại có thêm động đất....
Nhấn Vào Đây Để Tải Tập Tin PDF
Nhác mắt trông ra nước trắng bong,
Thuyền nan nhè nhẹ dạo chơi rong.
Tay chèo hứng gió chim bay mỏi,
Lưng mượn khuôn trăng cá vẫy vùng.
Bèo nổi lênh đênh đầu nội sạch,
Lúa chìm sâu thẳm cánh đồng không.
Ai ơi lo nghĩ làm chi nhọc,
Quý Tỵ chơi tràn khỏi luống công.
Chú thích:Năm Quý Tỵ 1893, đê Nhị Hà bị vỡ, nước lụt tràn ngập đồng bằng miền Bắc, mùa màng mất sạch làm nhiều người chết đói. Xin để ý đến khẩu khí của nhà thơ. An nhiên chịu đựng với vẻ ngang tàng. Không những ngang tàng an nhiên, ông còn chèo thuyền đi chơi trên nước lụt, và làm thơ về chuyện đó. Nhờ vậy, chúng ta mới mường tượng ra đời sống của người dân miền Bắc 120 năm về trước.
Vịnh Lụt Năm Tỵ
Tỵ trước, tỵ này, chục lẻ ba
Thuận dòng nước lũ lại bao la
Bóng thuyền thấp thoáng giờn trên vách
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà
Bắc bậc người còn chờ chúa đến
Đóng bè ta phải rước vua ra
Sửa sang việc nước cho yên ổn,
Trời đã sinh ta ắt có ta
Chú thích:Đúng một giáp sau trận lụt Quý Tỵ 1893, năm Ất Tỵ 1905 lại có một trận lụt nữa, thiệt hại còn lớn hơn. Nguyễn Khuyến viết bài này trong trận lụt năm tỵ thứ hai. Hai câu "luận" (5-6) có nghĩa là chủ nhà phải bắc thang leo lên cao để chờ người cứu và phải đặt bếp trên bè để thổi cơm. Vật nấu bếp được gọi là ông đầu rau, ông núc hay vua bếp.
Nước Lụt Hà Nam
Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi,
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi.
Gạo dăm ba bát cơ còn kém,
Thuế một vài nguyên dáng chửa đòi.
Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng,
Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi.
Đi đâu cũng thấy người ta nói:
Mười chín năm nay lại cát bồi.
Chú thích:Năm Canh Dần 1890, mưa lụt ở vùng Hà Nam đã phá vỡ quai đê của làng Mễ Tràng thuộc huyện Thanh Liêm. Vì vậy, nước sông Đáy tràn vào ruộng, phá hỏng mùa màng và gây ra trận đói. Quê hương của Nguyễn Khuyến là vùng Bình Lục cũng bị thiệt hại. Bài thơ này viết về trận lụt năm đó. Lũ lụt là một phần bình thường của cuộc sống ở miền Bắc, nhất là vào các năm Thìn, Tỵ. Ngày nay hiện đại hơn lại có thêm động đất....
Nhấn Vào Đây Để Tải Tập Tin PDF
Gửi ý kiến của bạn