Hôm nay,  

Giấy đi cầu

20/07/202210:30:00(Xem: 2813)

Tạp bút

dicau


Ai cũng biết giấy là một vật rất quan trọng trong cuộc sống của nhân loại. Thời xa xưa, giấy vừa quý hiếm vừa mắc, chỉ được dùng trong việc ghi chép kinh kệ trong các nghi lễ tôn giáo, và cho các văn tự trong cung đình của vua chúa. Giấy được chế tạo lần đầu tiên vào năm 105 AD trước Công Nguyên, bên Tàu,  bởi một quan thái giám tên Ts’ai Lun (1). Nhưng hôm nay, tôi chỉ xin nói đến một khía cạnh “cực kỳ” quan trọng không kém của giấy, có khi quan trọng hơn là đằng khác trong thời đại chúng ta đang sống hôm nay, là giấy vệ sinh (toilet/bathroom tissue), nói nôm na là giấy đi cầu. 


Ở các nước giàu có, văn minh, giấy vệ sinh được bày bán rất nhiều trong các tiệm hoặc các chợ bán thực phẩm; còn ở Việt Nam, giấy đi cầu cũng thừa mứa đến nỗi người dân dùng để…lau miệng trong các tiệm ăn, nhà hàng. Hầu như toàn thế giới đều không biết quý trọng giấy vệ sinh cho đến khi nhân tai Covid xảy ra, giấy vệ sinh trở nên khan hiếm; không nói ra, ai cũng biết và từng chứng kiến cảnh xếp hàng dài ở các tiệm, giành giật nhau từng cuộn giấy vệ sinh. Không khéo còn xảy ra chiến tranh vì giấy đi cầu.


Sau trận đại dịch, nhiều người bắt đầu chuyển sang xài nước để nếu bất cứ chuyện xảy ra lần nữa, họ cũng vẫn có thể giữ cho thân thể mình được sạch sẽ. Thế mới hay giấy đi cầu, sau vài ngày bỗng trở nên quý hiếm y như mấy thế kỷ trước đây lúc nhân loại vừa biết cách làm ra giấy. Họ trang bị cho các bàn cầu trong nhà bằng một loại dụng cụ được gọi là “bidet” (2), tức máy rửa phần dưới, thay cho giấy. 


Tại đất nước con cháu Thái Dương Thần Nữ, người dân đã đi trước thế giới một thời gian dài. Những lần ghé nước Nhật, ở trong các khách sạn, tôi đều có dịp sử dụng máy rửa này, thật tiện lợi vì ấm áp trong mùa Đông, mát mẻ trong mùa Hè. Phiền một điều là những cái nút xử dụng chỉ được viết bằng tiếng Nhật; may nhờ hồi nhỏ hay coi truyện tranh có hình, tôi cũng mò mẫm xử dụng đúng “chức năng” chùi rửa và hong khô của nó. Về lại Mỹ, tôi mua ngay 1 cái gắn trong bàn cầu nhà, xài thử để bắt kịp nền “văn hóa rửa” của Nhật Bản, để cho bằng anh và bằng em, và quan trọng hơn nữa là để khỏi lo thiếu giấy khi khan hiếm.


Thật ra bidet được sáng chế ở Pháp vào cuối thế kỷ thứ 17, không được thịnh hành cho lắm vì chỉ nhà giàu mới dám xài; nhưng lịch sử Châu Âu có ghi, vào hậu bán thế kỷ thứ 18, hoàng hậu Maria Carolina của xứ Sicily và Naples đã cho gắn bidet trong phòng tắm của nàng.


Xin trở lại đề tài chính là giấy vệ sinh. Tuy hiện nay, con người đã khôn ra và biết xử dụng cả giấy lẫn nước, nhưng có bao giờ chúng ta thắc mắc, tò mò, thời cổ đại, con người ta khi cần phải giải quyết “bầu tâm sự”, nghĩa là phải xách cuốc ra đồng hay ôm bụng chạy ra sau hè, họ xài gì để chùi khi chưa có giấy? Rồi khi có giấy, tại sao con người vẫn chưa dám xài? Ngày nay, trong các nước nghèo như các nước cộng sản và một số nước ở Châu Phi, không có tiền mua giấy, họ dùng cái khỉ khô gì để làm sạch phía dưới?


Giờ nói chuyện bên Tây trước: khi chưa có giấy, người cổ La Mã và Hy Lạp ngày xưa xài một cây gậy, một đầu được quấn bông gòn hay miếng bọt bể, sau khi xài xong, ngâm đầu gậy vào thùng nước, rửa xong đem phơi khô để xài cho lần tới. Họ gọi cây gậy này là Tersorium. Năm 850 trước Công Nguyên, hai thày trò nhà thơ Hy Lạp Homer hay đi rong ruỗi trên đường, khi mắc đại tiện, họ xài cái gì để chùi? Homer là một đại thi hào mù, ông là tác giả thiên trường thi nổi tiếng “The Odyssee” được truyền tụng đến bây giờ. Theo truyền thuyết, trong túi đồ đeo bên vai của chú tiểu đồng đi theo hầu, lúc nào cũng có vài viên đá cuội dành cho việc đại tiện của chủ mình. Nếu hơi nhám, xài 3 viên, còn trơn láng, xài 4 viên. Nhiều nhà sử học kết luận, đế quốc La Mã cũng chấp nhận thời đó người dân đều xài đá cuội hay miếng giẻ từ quần áo cũ, được giặt sạch sau mỗi lần dùng.


Châu Âu thời Trung Cổ, thời các hiệp sĩ, vua quan, và dân thường. Họ xài gì khi cần đi “trút bầu tâm sự”? Ngoài xài nước là thứ không phải lúc nào cũng sẵn một bên, các chàng kỵ sĩ, quân lính trên đường ra mặt trận, họ phải xài một cành cây nhỏ hơi cong ở một đầu, hoặc lá cây, rơm, cỏ khô hay một cục đất khô, còn sang hơn một chút là miếng rong rêu phơi khô vì thứ này mịn và êm ái hơn nhiều.


Thời Phục Hưng bên Pháp: vua chúa và giới thượng lưu, mỗi khi “đi việc cần” , họ đi đâu, xài vật liệu gì để chùi? Nhà xí của họ hình dáng ra sao? Thời này văn minh hơn, giấy đã bắt đầu phổ biến nhiều nhưng vẫn rất đắt đỏ vì hầu hết chỉ được xài trong văn tự cung đình và trong văn chương, thi phú và hội họa cho giới thượng lưu. Thời hoàng đế Napoleon, người giàu đã dám xài giấy, loại giấy xài rồi, có chữ viết bị bỏ đi, họ chỉ vò cho nó mềm để chùi. Còn dân nghèo vẫn phải xài giẻ rách, chùi rồi giặt lại xài tiếp cho đến khi nào tả tơi thì thôi. 


Có truyền thuyết ghi chép rằng trong triều đình Pháp còn xài dây thừng. Trong nhà vệ sinh của hoàng gia lúc nào cũng có 1 sợi dây thừng treo toòng teng kế bên dành cho việc đi ngoài. Khi xong việc đại quan trọng, người ta chỉ cần lòn dây thừng qua giữa hai chân, rồi kéo tới kéo lui như chơi đàn violon vậy. Quả là “đại tiện…lợi”. Họ không thích thay dây mới: đức vua xài xong, đến hoàng hậu, rồi các triều thần. Người ta giải thích vì việc này tượng trưng cho vua tôi một dạ một lòng, trung thành và chí tình với nhau. Nhưng tôi ngờ rằng họ không thay vì lý do “nhạy cảm” như các vị “tủ lạnh” trong nước hay nói; dây cũ thì trơn tru, kém độ ma sát, còn dây mới thì nhám nhúa, coi bộ hơi thốn dữ đa. Cứ tưởng tượng một tờ giấy nhám còn mới, độ nhám số 80 hay số 120 mà chà vào nơi nhạy cảm thì phải biết, còn xót xa hơn cả một mùa Đông tê tái. 


 blank

 Ghế bồn cầu xài trong cung điện Versailles, Pháp.

blank 

Bidet được dùng trong thế kỷ 18 Châu Âu.


Bây giờ nói về giấy vệ sinh bên ta mà 3 nước lớn và văn minh tiêu biểu như Ấn Độ, Trung Hoa và Nhật Bản.


blankblank

Hình trái: Bàn cầu của Từ Hy thái hậu bên Tàu; Hình phải:  Chugi, thẻ tre của Nhật Bản thời chưa xài giấy.


Thời cổ bên xứ Phù Tang, hoàng gia và triều thần, các Samurai và quý tộc đều xài Chugi vì chưa có giấy. Chugi là những thanh gỗ hay thanh tre dùng để quẹt phía dưới sau khi giải tỏa xong “bầu tâm sự”. Nó trở nên thịnh hành vì rẻ và rửa lại xài tiếp, nói theo ngôn ngữ trong nước là xài “liên hoàn”, có nghĩa là cứ xài đi xài lại, càng xài càng bóng và càng êm. Họ đã xài Chugi trong cả ngàn năm mà vẫn chưa bao giờ lỗi thời. Chỉ những gia đình vua chúa, quyền quý mới biết xài giấy vào thế kỷ thứ 7 sau công nguyên.


Có truyền thuyết hoàng gia Nhật cũng xài cánh của con ve sầu. Cánh ve cứng và giòn, nên người hầu phải ngâm trong nước ấm 3 ngày mới đem ra dùng được. Phương cách này có điều lợi là cánh ve sầu trong suốt nên có nhìn thấu qua để biết hoàng tộc có bị bệnh đàng dưới như táo bón, kiết lỵ, hoặc có bị  “Tào Tháo rượt” hay không? Điều này rất dễ dàng cho các ngự y chẩn và chữa bệnh cho hoàng gia.


Còn anh hàng xóm khổng lồ 4 tốt, 16 chữ vàng kế bên, thời xưa xài cái gì? Vào thời Tam Quốc khoảng năm 220-280, trong sách Tư Tri Thông Giám có viết rằng người Tàu cũng xài một thanh gỗ hay thanh tre được vuốt theo hình cái thẻ, gọi là Xí Trù (廁籌).


Thời xưa không có giấy vệ sinh, người xưa dùng cái gì ? – Triết học đời sống

Xí trù: Thẻ tre đi cầu ngày xưa bên Tàu.


Thời Phật Giáo còn sơ khai, sau khi Đức Phật đã nhập Niết Bàn cả trăm năm rồi, các đệ tử mới ghi chép lại trong Tì Ni Mẫu Kinh, lời Đức Phật dạy khi đi nhà xí, ta phải đem theo thẻ tre và cỏ khô đến trước nhà xí, ta phải búng ngón tay 3 lần để người bên trong biết có người đang ở bên ngoài chờ đến phiên. Khi xong, nếu không có thẻ tre thì không được chà lên vách, ván, hay cột của nhà xí. Không được dùng đá, đất nhuyễn, cỏ tươi, lá cây mềm, hay các loại cây lạ. Chỉ được xài gỗ, tre, hay cỏ lau làm thành thẻ tre dài nhất một gang tay, ngắn là 4 lóng tay. Cái nào xài rồi, không được để lẫn lộn với thẻ sạch. Qua chuyện này, chúng ta biết người Ấn Độ đã đi trước người Tàu trong việc xử dụng thẻ tre trong việc vệ sinh cá nhân.


Dù người Tàu đã sáng chế ra giấy từ năm 105, nhưng giấy vẫn là một món hàng quý và đắt, là một trong văn phòng tứ bửu gồm Bút, Nghiên, Giấy, Mực. Giấy cũng được dùng trong việc thờ tự và là một phương tiện giao tiếp với trời đất thần linh bằng cách viết chữ trên đó, đốt tờ giấy để dâng lên thần thánh. Vì vậy, đối với người Tàu, giấy vẫn là một thứ linh thiêng và quý hiếm.

Lúc hoạn quan Nguyễn An xây Tử Cấm Thành năm 1420, không hề có bất cứ một cầu tiêu hay nhà xí nào trong khuôn viên. Người hầu phải khiêng những thùng gỗ chất thải, đi theo một lối đi riêng, sau khi hoàng gia xài xong, họ xịt nước hoa để khử mùi.  Khi Càn Long lên ngôi (1711-1799), ông mới cho xây 3 nhà xí trong cung điện của mẹ mình, có giấy chùi đầy đủ kèm theo.


Người Ấn Độ dạy cho người Tàu cách dùng thẻ tre trong một thời gian rất lâu; rồi đến con cháu Thành Cát Tư Hãn mới chỉ cho người Tàu cách thay que bằng giấy khi họ chiếm toàn cõi Trung Hoa. Người Mông Cổ vốn không đặt nặng vấn đề tín ngưỡng nên không coi trọng giấy trong việc thờ phượng. Theo Nguyên Sử, phần liệt truyện của Du Tôn Huy Nhân Dụ Thánh hoàng hậu, có ghi: nàng Bá Lam Dã Khiếp Xích, khi còn là vợ của thái tử, sống rất hiếu thuận với mẹ chồng, tức mẹ của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt; nàng thường dùng má của mình để thử độ mịn màng của giấy trước khi đưa cho Chiêu Duệ Thuận Thánh hoàng hậu dùng trong việc vệ sinh cá nhân. 

Thời nhà Minh, trong sách sử cuốn 50, có ghi về một cơ quan chuyên lo việc về giấy đi cầu trong cung đình được gọi là Bửu Sao Ty. Đến thời nhà Thanh, có nhiều sử sách có viết về việc dùng giấy đi cầu. Trong truyện Hồng Lâu Mộng, giữa thế kỷ thứ 18, đời Càn Long, nhà Thanh, hồi thứ 41, có đoạn tả cảnh  lão Lưu bất giác thấy bụng sôi sùng sục, bèn hét một a hoàn lấy cho mấy tờ giấy, rồi định cởi quần ra. Mấy người gần đó vừa cười vừa quát to: “Chỗ này không đi được đâu!”. Rồi sai một bà già đưa lão Lưu đi về hướng Đông Bắc. Đưa lão Lưu đến nơi, bà già vội lẩn đi nơi khác. 


Viết về đủ các thời kỳ, cách thức các nước trên thế giới xài giấy đi cầu mà không viết về thời văn minh đỉnh cao đi thụt lùi của người và của chế độ cộng sản sau năm 1975, sẽ là một thiếu sót lớn lao trong lịch sử Việt Nam thời cận đại. Cái thời mà người người, nhà nhà, ngoại trừ mấy mấy “ngài tủ lạnh” cao cấp và gia đình họ, dân đen, ai nấy đều phải “tư duy sâu”, “phát huy sáng kiến”, tận dụng và “cải thiện” tối đa phương tiện có được trong thiên nhiên, ngoài nước sông, nước giếng, nước hồ, ai nấy lo bứt lá cây mềm, xui tận mạng mới hái lầm lá Poison Ivy, xài lá chuối khô mà phải đúng lá chuối xiêm phơi một nắng cho nó mịn màng; nếu đang ở ngoài ruộng thì bờ cỏ non, xanh mềm như nhung là tuyệt vời nhất, xong việc, cọ bàn tọa lên bờ cỏ êm ái, thì cảm giác còn mê ly hơn lý tưởng cộng sản gấp vạn lần.


Riêng tôi lúc đó đang phá rẫy trồng đậu và bắp ở trong rừng nên có dư dả vật liệu cho việc “đi đồng”. Tôi phơi khô và tích trữ cùi bắp và vỏ trái bắp rất nhiều, cả một kho. Ai thiếu thốn, tôi không biết, tôi chỉ biết tôi dư thừa “giấy đi cầu” cho riêng bản thân tôi, lại còn có dư để tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội mà không cần đến cái thứ giấy “Kiss Me” của bọn tư bản giãy chết. 


Một lần tôi từ trên rẫy về thăm nhà, chở theo về một ít nông sản trồng được ở rừng về cho gia đình. Tôi bắt gặp đứa em gái từ trong nhà xí bước ra, trên tay cầm một tập thơ Tố Hữu trong tủ sách của tôi, chỉ còn lam nham vài tờ. Thấy tôi, mặt nó tái xanh, thất thần và hoảng sợ; còn tôi giật mình, đau nhói trong tim, không phải tiếc tập thơ mà vì thương em gái mình. Từ một đứa bé gái quen sống ở thị thành, không biết khổ là gì, nay phải xài cái thứ giấy màu nâu nhám nhúa, thô ráp, lòng tôi quặn đau vì thương em.


Chiều hôm đó, một bà ve chai đi ngang nhà, rao bán giấy vụn cân ký cho người ta gói hàng, tôi kêu vô và thấy mấy chồng báo Nhân Dân, một cuốn Tư Bản Luận, vài cuốn sách về chủ nghĩa cộng sản đóng bìa da mạ vàng còn mới tinh do nhà xuất bản Chính Trị Sự Thật in ra còn thơm mùi mực, giá rẻ rề. Tôi mua hết cả gánh cho bà ra về được nhẹ nhàng. Bà cho hay, nếu cần thêm, bà còn cả đống sách mới nguyên, còn ràng giây cẩn thận, cũng do những nhà xuất bản nhà nước mới in xong, chưa ráo mực, bà sẽ gánh đến bán cho tôi, giá rất phải chăng. Tôi vui vì đã có một quyết định đúng lúc và tôi tự hứa không để gia đình mình phải xài cùi bắp do tôi mang về. 


Có lẽ do sống khá lâu trong xứ thiên đường nên bà xã tôi có cái tật đầu cơ tích trữ, kể cả tích trữ giấy đi cầu, nhờ vậy trong thời đại dịch, chúng tôi chưa bao giờ thiếu giấy. Bây giờ lại có thêm bidet hỗ trợ thì tôi chẳng còn phải lo chi việc giấy…tờ. Dầu sao qua những thăng trầm lịch sử của giấy đi cầu, tôi cũng rút ra được kinh nghiệm sống: trong cái khó, nó ló cái khôn; ở trong nước thì trong cái khó, nó ló cái gian. Nếu không có cả hai thứ cần thiết là giấy và bidet, tôi vẫn sống khỏe bằng chính đôi tay của mình, bằng những cái mình tự có khi phải trả lời tiếng gọi thiên nhiên của cơ thể mình mà người Mỹ vẫn nói với đùa với nhau một cách dí dỏm và văn hoa khi con người phải “answer nature’s call”, be ready. 

    

blank

Giấy đi cầu Việt Nam thời XHCN.


Nguyễn Văn Tới (LT)

(7/2022)


Chú thích:


https://en.wikipedia.org/wiki/Cai_Lun

https://en.wikipedia.org/wiki/Bidet

https://www.travelchinaguide.com/attraction/beijing/are-there-toilets-inside-forbidden-city.htm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.
Nhận được tin buồn nhà thơ Phan Xuân Sinh sau một cơn bạo bệnh, nhập viện vì bệnh tim mạch, hôn mê sau 10 ngày vô phương cứu chữa đã qua đời tại Texas ngày 28/2/2024. Thọ 76 tuổi...
Từ hồi trẻ, tôi đã có thói quen là những ngày giáp Tết thì bắt đầu chọn một vài bài nhạc xuân để nghe; và trong những ngày đầu năm thì sẽ đọc một cuốn sách. Thói quen “khai sách đầu xuân” có thêm một chi tiết khi tuổi quá độ “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”: đọc một cuốn sách có chủ đề về Phật Giáo. Trong năm Giáp Thìn này, tôi chọn cuốn “Từ Mặc Chiếu Đến Như Huyễn” của một tác giả cũng tuổi con rồng: cư sĩ Nguyên Giác, cũng là nhà báo Phan Tấn Hải. Giới thiệu “tác giả, tác phẩm” dài dòng như vậy, nhưng đối với tôi, người viết đơn giản chỉ là anh Hải, một người anh thân thiết, đã từng có một thời ngồi gõ bàn phím chung trong tòa soạn Việt Báo ở phố Moran. Đọc sách của anh Hải, tôi cũng không dám “điểm sách” hay “phê bình sách”, vì có thể sẽ bị anh phán rằng “… viết như cậu thì chỉ… làm phí cây rừng thôi!” Bài viết này chỉ ghi lại một vài niềm hứng khởi khi được tặng sách, khi đọc qua cuốn sách mà cái tựa cũng đã chạm sâu thẳm vào những điều bản thân đang chiêm nghiệm.
Chúng ta thường được nghe nói, rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng đế thì không ai thấy, nhưng có một thứ còn đáng sợ hơn nhân vật cổ sử đó (nếu thật sự là có Thượng Đế): đó là những trận mưa bom. Người dân Ukraine và Palestine ý thức rất rõ, vì đó là chuyện hằng ngày của họ: mọi người đều bình đẳng khi đứng dưới mưa bom. Già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nông dân, nhà thơ, họa sĩ… đều bình đẳng: khi bom rơi trúng là chết. Cuộc chiến giữa người Palestine muốn giữ đất và người Israel từ nơi xa tới nhận phần đất mới do quốc tế trao tặng từ đất Palestine đã kéo dài nhiều thập niên. Bây giờ căng thẳng mới nhất là ở Gaza, cuộc chiến đang tiếp diễn giữa nhóm Hamas, thành phần chủ trương bạo lực của dân Palestine, và quân Israel. Trong những người chết vì bom Israel, có những người hiền lành nhất, đó là trẻ em và phụ nữ.
Thông thường khi nghe hai chữ “cô đơn” chúng ta liên tưởng đến trạng thái tinh thần yếm thế, tâm tư buồn bã, ngày tháng chán chường, thậm chí, cuộc đời trống rỗng. Có lẽ, vì ý nghĩa từ điển của từ vựng này; có lẽ, vì ảnh hưởng văn chương nghệ thuật; có lẽ vì chúng ta đã từ lâu tin như thế, mà không bao giờ đặt một nghi vấn nào. Đây là định nghĩa của “cô đơn” qua Bách thư toàn khoa Wikipedia: “Cô đơn là một trạng thái cảm xúc phức tạp và thường gây khó chịu, đáp ứng lại với sự cách ly xã hội. Cô đơn thường bao gồm cảm giác lo lắng về sự thiếu kết hợp hay thiếu giao tiếp với những cá nhân khác, cả ở hiện tại cũng như trong tương lai. Như vậy, người ta có thể cảm thấy cô đơn ngay cả khi xung quanh có nhiều người. Nguyên nhân của sự cô đơn rất đa dạng, bao gồm các vấn đề về xã hội, tâm thần, tình cảm và các yếu tố thể chất.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.