Tôi có một chuyện buồn muốn kể quý vị nghe. Đó là chuyện đất nước tôi, nước Việt Nam. Trên thế giới ngày nay, đâu dâu cũng có chuyện buồn, từ hang cùng ngõ hẻm cho đến lầu son gác tía, đã biết bao dòng nước mắt tuôn trào chớ đâu có riêng gì Việt Nam. Thế nhưng những chuyện buồn đó chỉ là đoản kỳ, nó có lúc cũng như sông có khúc. Còn Việt Nam là nỗi buồn lê thê kéo dài trong hơn một thế kỷ, đến nay vẫn chưa nguôi.
Ngay từ cuối thế kỷ 19 Việt Nam đã mất chủ quyền về tay thực dân Pháp để đến đầu thế kỷ 20 ách bảo hộ của nước ngoài được củng cố, triều đình nhà Nguyễn là một thứ bù nhìn. Việt Nam chỉ là một “chuồng ngựa” của Pháp, vậy mà không được yên thân, vẫn bị kéo vào những cuộc can qua của thế giới. Việt Nam đã bị dính ngay từ Đệ nhất Thế chiến (1914-18), dân Việt Nam phải đi “lính thợ” sang Pháp làm nhà máy đúc súng hay khuân vác đạn ra chiến trường, trong khi ở Việt Nam chăng đầy biểu ngữ có hình ảnh Con rồng Phun bạc. Nó còn kèm theo lời ghi chú ngon lành “Rồng Việt Nam nhả bạc cứu Mẫu quốc”. Nghệ thuật tuyên truyền kiếm bạc đó còn được truyền thụ đến ngày nay, vô số anh đã ứng dụng nhuần nhuyễn để vớ bộn. Đến Đệ nhị Thế chiến (1939-45), Việt Nam càng bị dính kỹ hơn trước, bởi vì đại chiến đã đến ngay cửa ngõ chớ không còn xa như trước. Quân đội Đế quốc Nhật Bản từ Trung Hoa kéo vào Việt Nam chỉ nổ vài phát súng, Pháp đã hàng mở cửa biên giới Lạng Sơn, Nhật toàn quyền quân sự, chỉ cho Pháp giữ nguyên nền hành chánh để trị dân trong nước. Cảnh một cổ hai tròng này đưa đến nạn đói năm Dậu (1945) làm 2 triệu người chết thảm. Đó là chưa kể phi cơ Đồng Minh ngày đêm bay đến dội bom xuống đầu quân Nhật, làm tan nát nhiều nơi từ Nam chí Bắc khiến dân Việt chết lây cũng không ít.
Nhưng thê thảm nhất lại là lúc sau đại chiến kết thúc. Việt Nam lâm vào cuộc chiến cục bộ dài 30 năm. Người ta gọi đây là cuộc chiến dành độc lập, nhưng độc lập dân tộc chỉ là cái bảng hiệu che bề ngoài, còn bề trong thực sự là cuộc chiến quốc-cộng vô cùng tàn bạo, “chiến tranh nhân dân” nên nó không tha một người dân nào. Giai đoạn đầu đến năm 1954 được gọi là chiến tranh chống Pháp, kết quả là đất nước Việt Nam bị chia đôi, hàng rào con sông Bến Hải còn kiên cố hơn thời Trịnh Nguyễn phân tranh vì thời nay có vũ khí tối tân bảo vệ.
Kế tiếp ngay sau đó là giai đoạn chiến tranh gọi là “chống Mỹ cứu nước”, nhưng sự thật đây là cuộc chiến cục bộ của một kiểu chiến khác diễn ra trên toàn thế giới, chiến tranh lạnh. Năm 1975 chiến tranh Việt Nam kết thúc, nhưng kỳ lạ thay tại sao người Việt Nam không ở trong nước hưởng thái bình, lại liều mạng vượt biển bỏ nước ra đi. Đó là vì trong nước cả triệu người đã bị bắt vào các trại giam mọc lên như nấm, bị lùa đi lao động khổ sai để cải tạo tư tưởng, trong khi nhà nước hô cả nước tiến mau tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội làm dân đói dài, đất nước tan nát. Năm 1989 chiến tranh lạnh kết thúc, nỗi buồn của Việt Nam chưa dứt vì lại lâm vào một cuộc chiến kỳ khôi: chiến tranh của cái dạ dầy. Trong cuộc chiến này cái bao tử đã “đánh thắng” cái đầu mác-xít cho nên kinh tế xã hội chủ nghĩa phải đầu hàng mà nhường chỗ cho kinh tế thị trường của ông đô la. Vậy bây giờ đến cuối thế kỷ rồi thì sao" “Ông” dạ dầy bị loét vì những quái trùng như tham nhũng buôn lậu xì ke ma túy kể cả HIV nhưng quái gở thay, người ta vẫn cho ông uống thuốc giáo điều của bộ xương khô.
Chuyện thật buồn nhưng tôi vẫn ráng viết bằng giọng vui gượng gạo chỉ để che đậy một nỗi hận trong lòng. Không phải hận riêng của tôi mà của tất cả nhũng người cùng lứa tuổi. Lứa tuổi thanh xuân của chúng tôi, lứa tuổi đẹp nhất trong cuộc đời, đã bị vùi dập dưới cơn bão táp của thời cuộc đất nước. Chúng tôi đã bỏ việc học hành dang dở trên ghế nhà trường để biết súng là gì, có lẽ trước cả phần lớn những ông tướng già của bên này hay bên kia lằn mức còn sống dai cho đến ngày nay. Riêng tôi, mối hận càng thấm thía vì từ hơn một nửa thế kỷ nay, từ lúc mái tóc còn xanh nay nó đã bạc mầu, tôi đã chót theo đuổi nghiệp cầm ca của ngòi viết để theo dõi từng bước chân của những diễn biến thời cuộc. Một đêm nằm trong trại cải tạo Gia Trung, tôi nhìn lên những vì sao lấp lánh trên bầu trời, thấy buồn cho vận mình thì ít mà buồn cho vận nước thì nhiều.
Trời đã về khuya, trong láng giam căn nhà lá, những trõng tre chạy dài, lớp trên lớp dưới, những bạn tù của tôi có người đã ngủ, có người còn thao thức như tôi, nhưng dù ngủ dù thức trong đám người này lâu lâu lại có tiếng thở dài não ruột. Chúng tôi có tội tình gì" Chúng tôi không trộm cắp, không cướp của giết người, tại sao chúng tôi bị nhốt nơi đây. Buồn thay thân phận con người sau một cuộc chiến đã buông súng để hòa bình trở lại. Và tôi mơ màng nếu tôi sinh ra ở một nước bình thường như cả trăm nước khác trên thế giới này, tuổi trẻ tôi được cắp sách đi học, lớn lên tôi làm một công dân tốt, dù nếu có nạn binh đao tôi vẫn hy vọng có một cuộc sống bình thản của một nước thái bình. Dù ở Thái Lan hay Mã Lai Á bên Á châu, ở Hòa Lan hay ở Hy Lạp bên Âu châu, dù ở bất cứ một nước Nam Mỹ nào, cũng không hề có những thế hệ trẻ bị nướng trên lò than của vận nước lâu hơn chúng tôi, để rồi sống sót khi trở về già nhìn lại mà ngậm ngùi cho số phận.
Khốn khổ cho Việt Nam, trải qua đến 5 cuộc chiến trong thế kỷ vẫn chưa đủ, trên thế giới không có nước nào chịu đựng cảnh bom đạn ròng rã suốt 35 năm liền nếu tính từ 1940 đến 1975. Và 25 năm còn lại của thế kỷ, 2 triệu con tim lưu vong vẫn nghẹn ngào nhìn lại cố hương. Đó là câu chuyện của nước tôi, nước bất hạnh nhất trong những nước bất hạnh của thế kỷ 20.
Ngay từ cuối thế kỷ 19 Việt Nam đã mất chủ quyền về tay thực dân Pháp để đến đầu thế kỷ 20 ách bảo hộ của nước ngoài được củng cố, triều đình nhà Nguyễn là một thứ bù nhìn. Việt Nam chỉ là một “chuồng ngựa” của Pháp, vậy mà không được yên thân, vẫn bị kéo vào những cuộc can qua của thế giới. Việt Nam đã bị dính ngay từ Đệ nhất Thế chiến (1914-18), dân Việt Nam phải đi “lính thợ” sang Pháp làm nhà máy đúc súng hay khuân vác đạn ra chiến trường, trong khi ở Việt Nam chăng đầy biểu ngữ có hình ảnh Con rồng Phun bạc. Nó còn kèm theo lời ghi chú ngon lành “Rồng Việt Nam nhả bạc cứu Mẫu quốc”. Nghệ thuật tuyên truyền kiếm bạc đó còn được truyền thụ đến ngày nay, vô số anh đã ứng dụng nhuần nhuyễn để vớ bộn. Đến Đệ nhị Thế chiến (1939-45), Việt Nam càng bị dính kỹ hơn trước, bởi vì đại chiến đã đến ngay cửa ngõ chớ không còn xa như trước. Quân đội Đế quốc Nhật Bản từ Trung Hoa kéo vào Việt Nam chỉ nổ vài phát súng, Pháp đã hàng mở cửa biên giới Lạng Sơn, Nhật toàn quyền quân sự, chỉ cho Pháp giữ nguyên nền hành chánh để trị dân trong nước. Cảnh một cổ hai tròng này đưa đến nạn đói năm Dậu (1945) làm 2 triệu người chết thảm. Đó là chưa kể phi cơ Đồng Minh ngày đêm bay đến dội bom xuống đầu quân Nhật, làm tan nát nhiều nơi từ Nam chí Bắc khiến dân Việt chết lây cũng không ít.
Nhưng thê thảm nhất lại là lúc sau đại chiến kết thúc. Việt Nam lâm vào cuộc chiến cục bộ dài 30 năm. Người ta gọi đây là cuộc chiến dành độc lập, nhưng độc lập dân tộc chỉ là cái bảng hiệu che bề ngoài, còn bề trong thực sự là cuộc chiến quốc-cộng vô cùng tàn bạo, “chiến tranh nhân dân” nên nó không tha một người dân nào. Giai đoạn đầu đến năm 1954 được gọi là chiến tranh chống Pháp, kết quả là đất nước Việt Nam bị chia đôi, hàng rào con sông Bến Hải còn kiên cố hơn thời Trịnh Nguyễn phân tranh vì thời nay có vũ khí tối tân bảo vệ.
Kế tiếp ngay sau đó là giai đoạn chiến tranh gọi là “chống Mỹ cứu nước”, nhưng sự thật đây là cuộc chiến cục bộ của một kiểu chiến khác diễn ra trên toàn thế giới, chiến tranh lạnh. Năm 1975 chiến tranh Việt Nam kết thúc, nhưng kỳ lạ thay tại sao người Việt Nam không ở trong nước hưởng thái bình, lại liều mạng vượt biển bỏ nước ra đi. Đó là vì trong nước cả triệu người đã bị bắt vào các trại giam mọc lên như nấm, bị lùa đi lao động khổ sai để cải tạo tư tưởng, trong khi nhà nước hô cả nước tiến mau tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội làm dân đói dài, đất nước tan nát. Năm 1989 chiến tranh lạnh kết thúc, nỗi buồn của Việt Nam chưa dứt vì lại lâm vào một cuộc chiến kỳ khôi: chiến tranh của cái dạ dầy. Trong cuộc chiến này cái bao tử đã “đánh thắng” cái đầu mác-xít cho nên kinh tế xã hội chủ nghĩa phải đầu hàng mà nhường chỗ cho kinh tế thị trường của ông đô la. Vậy bây giờ đến cuối thế kỷ rồi thì sao" “Ông” dạ dầy bị loét vì những quái trùng như tham nhũng buôn lậu xì ke ma túy kể cả HIV nhưng quái gở thay, người ta vẫn cho ông uống thuốc giáo điều của bộ xương khô.
Chuyện thật buồn nhưng tôi vẫn ráng viết bằng giọng vui gượng gạo chỉ để che đậy một nỗi hận trong lòng. Không phải hận riêng của tôi mà của tất cả nhũng người cùng lứa tuổi. Lứa tuổi thanh xuân của chúng tôi, lứa tuổi đẹp nhất trong cuộc đời, đã bị vùi dập dưới cơn bão táp của thời cuộc đất nước. Chúng tôi đã bỏ việc học hành dang dở trên ghế nhà trường để biết súng là gì, có lẽ trước cả phần lớn những ông tướng già của bên này hay bên kia lằn mức còn sống dai cho đến ngày nay. Riêng tôi, mối hận càng thấm thía vì từ hơn một nửa thế kỷ nay, từ lúc mái tóc còn xanh nay nó đã bạc mầu, tôi đã chót theo đuổi nghiệp cầm ca của ngòi viết để theo dõi từng bước chân của những diễn biến thời cuộc. Một đêm nằm trong trại cải tạo Gia Trung, tôi nhìn lên những vì sao lấp lánh trên bầu trời, thấy buồn cho vận mình thì ít mà buồn cho vận nước thì nhiều.
Trời đã về khuya, trong láng giam căn nhà lá, những trõng tre chạy dài, lớp trên lớp dưới, những bạn tù của tôi có người đã ngủ, có người còn thao thức như tôi, nhưng dù ngủ dù thức trong đám người này lâu lâu lại có tiếng thở dài não ruột. Chúng tôi có tội tình gì" Chúng tôi không trộm cắp, không cướp của giết người, tại sao chúng tôi bị nhốt nơi đây. Buồn thay thân phận con người sau một cuộc chiến đã buông súng để hòa bình trở lại. Và tôi mơ màng nếu tôi sinh ra ở một nước bình thường như cả trăm nước khác trên thế giới này, tuổi trẻ tôi được cắp sách đi học, lớn lên tôi làm một công dân tốt, dù nếu có nạn binh đao tôi vẫn hy vọng có một cuộc sống bình thản của một nước thái bình. Dù ở Thái Lan hay Mã Lai Á bên Á châu, ở Hòa Lan hay ở Hy Lạp bên Âu châu, dù ở bất cứ một nước Nam Mỹ nào, cũng không hề có những thế hệ trẻ bị nướng trên lò than của vận nước lâu hơn chúng tôi, để rồi sống sót khi trở về già nhìn lại mà ngậm ngùi cho số phận.
Khốn khổ cho Việt Nam, trải qua đến 5 cuộc chiến trong thế kỷ vẫn chưa đủ, trên thế giới không có nước nào chịu đựng cảnh bom đạn ròng rã suốt 35 năm liền nếu tính từ 1940 đến 1975. Và 25 năm còn lại của thế kỷ, 2 triệu con tim lưu vong vẫn nghẹn ngào nhìn lại cố hương. Đó là câu chuyện của nước tôi, nước bất hạnh nhất trong những nước bất hạnh của thế kỷ 20.
Gửi ý kiến của bạn